Điều hành chính sách tiền tệ: Không ngủ quên trên chiến thắng

07:00 | 25/11/2013

2,200 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả, tuy nhiên, không thể chủ quan trước những thách thức có thể đe dọa đến mục tiêu đã được đặt ra. Mới đây, NHNN đã tổ chức buổi tọa đàm “Nhìn lại điều hành chính sách của NHNN 2011-2013, những kết quả và thách thức” nhằm đánh giá về khó khăn, thách thức đối với nền tài chính tiền tệ trong khủng hoảng kinh tế.

Kết quả lớn…

Xung quanh câu chuyện về chính sách đấu thầu vàng của NHNN, có ý kiến cho rằng: Nhà nước độc quyền đấu thầu khiến nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng không còn đất sống. Tuy nhiên, PGS.TS Tô Kim Ngọc - Phó giám đốc Học viện Ngân hàng khẳng định: Tại thời điểm đó, việc đóng cửa trạng thái vàng và liên tục đấu thầu vàng là giải pháp đúng của Chính phủ.

Theo vị này, tại tam giác tiền tệ (dự trữ ngoại hối; cung tiền; tỷ giá và thanh khoản) của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã thấy rõ những căng thẳng về ngân sách. Vì vậy, NHNN phải tập trung giải quyết những vấn đề tồn đọng này là điều không phải bàn cãi.

Với nhiều nỗ lực và quyết liệt về chính sách, đến thời điểm hiện tại, tín dụng trong hệ thống ngân hàng đã được cải thiện, tăng trưởng đạt mức không quá thấp; tỷ giá, ngoại hối ổn định; lạm phát, nợ xấu kỳ vọng được kiểm soát... Tuy nhiên, hiện có khoảng 90% hợp đồng tiền gửi có thời hạn dưới 1 năm. Điều này cho thấy nguồn vốn của hệ thống ngân hàng mới chỉ đạt ở mức ngắn hạn và trung hạn. Thanh khoản và vấn đề về nợ xấu, tái cấu trúc vẫn còn nhiều vướng mắc.

Chính sách tiền tệ tuy đạt được nhiều kết quả nhưng vẫn chưa qua hết thách thức

“Vai trò của NHNN đã phủ đầy các lĩnh vực, nhưng nếu không biết cách quản lý thì một số vai trò sẽ không phát huy tác dụng”, bà Ngọc nói.

Theo Phó giám đốc Học viện Ngân hàng, nhiều bất cập sẽ không được giải quyết nếu NHNN vẫn áp dụng chính sách tài khóa cũ, nhất là đối với vấn đề nợ công.

“Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được thành lập để xử lý nợ xấu. Nhưng thực tế, VAMC vốn ít, không có hỗ trợ từ ngân sách, không có nguồn vốn bên ngoài nên dù nó có thể phát hành trái phiếu đặc biệt, nhưng vấn đề là Chính phủ sẽ dùng nguồn ngân sách nào để mua trái phiếu?”, bà Ngọc băn khoăn.

Chuyên gia kinh tế, TS Lê Xuân Nghĩa nhận định, để đánh giá đúng vai trò của NHNN, chúng ta phải nhìn lại thời điểm khủng hoảng trước đó của ngành tài chính tiền tệ. Năm 2011, tỷ lệ nợ xấu nhiều, lãi suất tăng cao, thị trường bất động sản giảm mạnh, doanh nghiệp cũng vay mạnh, Nhà nước đã dùng khoảng 5 tỉ USD để mua vàng, dùng vàng như một phương tiện kinh doanh. Đến năm 2013, qua nhiều chính sách về chấm dứt đôla hóa và vàng hóa, thị trường ngoại hối đã được ổn định, tình trạng vàng hóa được chấm dứt, lạm phát của hệ thống ngân hàng đã ở mức chấp nhận được, khoảng 6-7%. Tỷ giá hối đoái VND được đánh giá là ổn định nhất trong khu vực nên Việt Nam vẫn là môi trường kinh doanh thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài…

Một trong những thành quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ được Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, đó là: mức chênh lệch lãi suất đã được thu hẹp đáng kể. Lãi suất cho vay phổ biến đối với 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) ở mức 7-9%/năm.

Bên cạnh đó, lãi suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở các khối NHTM Nhà nước là 9-10,5%/năm; mức lãi suất cho vay cùng lĩnh vực này ở khối NHTM cổ phần chỉ nhỉnh hơn với lãi suất 9,5-11,5%/năm, thậm chí 6,5-7%/năm với doanh nghiệp làm ăn tốt.

Cũng về vấn đề này, nhiều chuyên gia đánh giá, ngân hàng đã bớt “ăn lãi” hơn nhiều so với trước đây. Ông Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho rằng: Sau khi trừ chi phí hành chính, trả lương cho nhân viên, chi phí quản lý và một số chi phí khác thì ngân hàng chỉ lãi khoảng 1,8%/năm, lãi của hệ thống ngân hàng thực tế không lớn như nhiều người nghĩ.

Theo TS Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright,  nếu như năm 2011, thanh khoản của các ngân hàng gặp khó khăn thì đến nay đã được cải thiện đáng kể.

“Mức lãi suất tuyệt đối trên thị trường liên ngân hàng đã giảm xuống, những đợt căng thẳng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng đã không còn nữa. Đồng thời việc chênh lệch lãi suất cao nhất và thấp nhất khi huy động tiền gửi của dân cư đã giảm xuống đáng kể. Điều này chứng tỏ thanh khoản của hệ thống tín dụng đã ổn định”, ông Thành nói.

Thách thức không nhỏ

Tuy đã đạt được nhiều kết quả khả quan nhưng thị trường tiền tệ vẫn luôn xuất hiện những thách thức lớn. Các chuyên gia kinh tế lên tiếng, để khôi phục đà tăng trưởng từ mức 5% - mức đáy, lên 8% là rất khó khăn. Hàng loạt chính sách hỗ trợ đều phải thông qua đầu mối là NHNN. Nếu NHNN đi chệch hướng “một chút”, nguy cơ lạm phát sẽ bùng nổ. Hệ thống liên ngân hàng đang chịu sự chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra, mặc dù lãi suất tiền gửi giảm không nhiều, nhưng lãi suất cho vay giảm mạnh sẽ làm mất thanh khoản trong hệ thống…

Nhận định về thách thức của thị trường tài chính, ông Trương Văn Phước cho rằng: dù đã đạt được một số kết quả tốt, song chúng ta không nên quá vui mừng vì chiến thắng. Bởi “con ngựa bất kham” khủng hoảng tài chính chưa bao giờ có ý thức dừng lại.

“Chúng ta luôn bàn về quá khứ rất hay, nhưng không có hoạch định cụ thể cho tương lai. Với thực tế lợi nhuận của các NHTM thấp, cổ đông điêu đứng, vốn mất, nếu tiến hành tái cấu trúc, mỗi NHTM sẽ có 1.000-2.000 người có nguy cơ bị đẩy ra đường. Vì vậy, ngoài quan tâm đến tái cơ cấu, chúng ta cần quan tâm đến tái cấp vốn cho các NHTM”, ông Phước gợi ý. “Bên cạnh đó, NHNN cần tiến tới gỡ bỏ vàng, tiếp tục chính sách chống đôla hóa. Với bước đi tỷ giá, chỉ cần tính sai một bước là đổ vỡ”.

Đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, TS Đào Lê Minh cho biết, 2 năm qua, chính sách tỷ giá đã góp phần giúp cán cân vãng lai từ thâm hụt tiến tới thặng dư, với khoảng 5 tỉ USD, tương đương khoảng 2% GDP vào cuối quý II/2013. Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định hạn chế tác động tới lạm phát, làm tăng dự trữ ngoại hối, củng cố niềm tin vào tiền đồng...

“Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một hạn chế, đó là mục tiêu đảm bảo cân bằng nội - ngoại chưa đạt, dù tỷ lệ lạm phát giảm nhưng diễn biến tỷ giá chưa thực sự phản ánh được sự ổn định của đồng nội tệ. Xu hướng tỷ giá tăng, sức ép giảm giá đồng Việt Nam lớn sẽ gây bất ổn thị trường ngoại hối và làm suy giảm dòng vốn đầu tư nước ngoài nói chung và dòng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán nói riêng. Bên cạnh đó, việc chưa hoàn thiện chính sách tỷ giá còn được phản ánh ở việc duy trì chế độ tỷ giá neo USD với biên độ hẹp trong một thời gian dài, trong điều kiện dự trữ ngoại hối mỏng, thị trường ngoại hối chưa phát triển và thiếu công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, lãi suất chưa thực sự khách quan và chính sách tỷ giá còn dựa nhiều vào công cụ phá giá nội tệ”, TS Minh nhận định.

Nhận định thách thức trong thời gian tới của NHNN còn rất lớn, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết: Mục tiêu trước mắt là phải kiên định chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức 7%. NHNN phải đặt mục tiêu đồng bộ và nhất quán trong điều hành và sử dụng các công cụ của mình; kiến nghị Chính phủ phát triển đồng bộ thị trường chứng khoán, bất động sản, thị trường mua bán nợ, thế chấp, tín chấp… nhằm khôi phục và phát triển kinh tế.

Thảo Nguyên

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 01:01

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 01:01