Sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân

Điều chỉnh ngưỡng thu nhập chịu thuế

06:49 | 31/08/2019

410 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mới đây, nhiều tài xế Grab đã phản ứng việc bất ngờ bị thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) 60.000 đồng/ngày thông qua ví tài khoản, bất kể tài xế có chạy xe hay không. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, Luật Thuế TNCN sửa đổi cần điều chỉnh và không cào bằng thu nhập chịu thuế nhằm tạo sự công bằng.

Hãng taxi công nghệ Grab mới đây đã áp dụng chính sách thu thuế TNCN 60.000 đồng/ngày thông qua ví tài khoản, bất kể tài xế có chạy xe hay không, khiến nhiều tài xế phản ứng tiêu cực. Theo thông báo phát đi từ Grab, tỷ lệ phần trăm để tính thuế giá trị gia tăng (GTGT) trên doanh thu từ cước phí vận tải được chia sẻ là 3%, thuế TNCN là 1,5%. Đối với các khoản tiền thưởng theo doanh thu, cá nhân nộp thuế TNCN theo tỷ lệ 1% trên tiền thưởng.

dieu chinh nguong thu nhap chiu thue
Không tăng mức giảm trừ gia cảnh sẽ gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp

Trường hợp Grab là một ví dụ điển hình cho thấy, sau 6 năm triển khai, Luật Thuế TNCN đang bộc lộ những hạn chế, lỗi thời, đòi hỏi các nhà làm luật phải xem xét nghiêm túc việc điều chỉnh, sửa đổi luật phù hợp với thực tiễn.

Thực tế, thuế suất thuế TNCN hiện tại được tính theo lũy tiến, thấp nhất là 5%, mức cao nhất là 35% trên thu nhập, khá cao. Thuế thu nhập doanh nghiệp trước đây là 32% trên thu nhập chịu thuế, sau các lần điều chỉnh, đã giảm xuống lần lượt còn 28%, 25% và hiện nay là 20%. Trong khi đó, thuế TNCN cao nhất vẫn là 35%. Khoảng cách điều tiết của biểu thuế cũng rất dày, chỉ cần thu nhập nhích một chút là lên bậc thuế cao hơn. Hiện ở Singapore, thuế suất khởi điểm của thuế TNCN là 2%, tối đa 22%; Malaysia tối thiểu 1%, tối đa 28%; Campuchia tối thiểu 5%, tối đa 20%... Rõ ràng thuế suất tối thiểu và tối đa của thuế TNCN ở nước ta tương đối cao.

Ông Nguyễn Thái Sơn, nguyên Trưởng phòng thuế TNCN (Cục Thuế TP HCM) cho hay, trước đây, khi xây dựng Luật Thuế TNCN, các cơ quan soạn thảo cũng tính đến phương án cho phép khấu trừ đối với một số khoản chi có hóa đơn. Tuy nhiên, thời điểm đó, thói quen mua hàng lấy hóa đơn chưa phổ biến, nếu áp dụng sẽ bị cho là làm khó. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, khấu trừ như vậy sẽ “thoáng” quá, không thu đủ thuế. Nhưng thời gian đã chứng minh nguồn thuế TNCN rất ổn định. Thậm chí, dù mức giảm trừ gia cảnh tăng từ năm 2013 nhưng không ảnh hưởng nhiều đến số thu thuế TNCN các năm sau. Vì vậy, cách tính thuế TNCN tới đây nên mở ra, thoáng hơn, cần điều chỉnh như thuế thu nhập doanh nghiệp, tránh sự khập khiễng giữa các sắc thuế.

Trong bối cảnh hiện nay của nước ta, cải cách thuế TNCN cần lưu ý đến nhu cầu dân sinh. Từ nửa cuối năm 2007 đến nay, nền kinh tế nước ta liên tục phải đối phó với tình trạng lạm phát cao và những bất ổn vĩ mô. Giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nước liên tục tăng, ngay cả khi lạm phát đỡ căng thẳng thì giá cả cũng đã lên một mặt bằng mới, khiến thu nhập thực tế của người dân bị giảm mạnh.

Luật thuế TNCN hiện nay tương đối lạc hậu với sự phát triển của nền kinh tế, có khá ít các khoản giảm trừ. Điều này làm nảy sinh sự bất bình đẳng khi có thu nhập chịu thuế được giảm trừ gia cảnh, có thu nhập chịu thuế không được giảm trừ gia cảnh. Vì thế, nhiều ý kiến cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát thuế TNCN, trước mắt cần điều tiết giảm trừ gia cảnh, tăng mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế và người phụ thuộc.

Chia sẻ về vấn đề này, anh Lương Ngọc Tú, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Sao Việt, cho rằng: “Việc không điều chỉnh kịp thời mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân và người phụ thuộc là một điều không công bằng cho người đóng thuế TNCN. CPI tăng, lương tối thiểu tăng, thu nhập bình quân đầu người tăng, nhưng mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên, dẫn đến tiền lương danh nghĩa của các đối tượng chịu thuế mặc dù tăng nhưng thực tế bị giảm sút nghiêm trọng”.

Người lao động càng ngày càng khó khăn, eo hẹp trong chi tiêu mà thu nhập không tăng tương xứng. Luật Thuế TNCN hiện nay đang làm khó người lao động. Chúng ta không xem xét lại thuế TNCN, không tăng mức giảm trừ gia cảnh, nghĩa là chúng ta đã gây khó khăn cho người dân và suy cho cùng là doanh nghiệp. Nếu người dân giảm chi tiêu thì doanh nghiệp buộc phải giảm sản xuất - anh Tú nhấn mạnh.

Tại Hội nghị phổ biến những điểm mới của Luật Quản lý thuế sửa đổi 2019 ngày 27-8-2019, bà Tạ Thị Phương Lan, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý TNCN, Bộ Tài chính xác nhận: Luật Thuế TNCN hiện hành (hiệu lực từ 1-7-2013) quy định, khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động ở mức cao hơn 20% thì Chính phủ sẽ trình Quốc hội để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Tuy nhiên, sau 6 năm thực thi, đến nay nhiều quy định của Luật Thuế TNCN không còn phù hợp cần phải sửa đổi, bổ sung. Theo tính toán, từ ngày 1-7-2013 đến hết tháng 7-2019, CPI đã vượt 20%, đây là điều kiện để trình mức điều chỉnh với Quốc hội. Tuy nhiên, hiện Chính phủ chưa trình phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo biến động giá.

Về vấn đề giảm trừ gia cảnh, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam nên theo nguyên lý thuế TNCN của nhiều nước đang làm rất hiệu quả. Tức là việc tính thuế phải theo mức thu nhập của hộ gia đình. Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh của hai người phụ thuộc được tính bằng mức giảm trừ của một người có thu nhập tính thuế. Đó là cách tính bảo đảm công bằng cho người nộp thuế.

Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, đầu tiên Chính phủ phải kiểm soát lạm phát, sau đó mới xem xét có điều chỉnh hay không. Bởi việc điều chỉnh này liên quan tới tổng thể chính sách thuế. Bên cạnh giảm trừ gia cảnh cũng cần xem xét, khấu trừ các chi phí hợp lệ khác của người dân như khám chữa bệnh, giáo dục, làm từ thiện, mua bán nhà đất... có hóa đơn, chứng từ đầy đủ. Nếu không giảm trừ các khoản chi phí hợp lệ thì mới cần thiết xem xét mức giảm trừ gia cảnh.

Qua thực tế biến động của giá cả thị trường, thu nhập của người dân cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc xem xét lại cách tính thuế và mức giảm trừ gia cảnh để vừa giảm bớt khó khăn cho người nộp thuế, nhất là đối với những người nộp thuế ở các bậc thấp, vừa bảo đảm khả năng điều chỉnh thuế linh hoạt hơn theo thực tiễn của nền kinh tế và thu nhập của người dân. Nếu Luật thuế TNCN sửa đổi vẫn theo những con số tuyệt đối cứng nhắc sẽ không thể đáp ứng đòi hỏi này. Vì thế, nên tính toán giảm thuế cho người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn hiện nay để thúc đẩy chi tiêu, sản xuất, góp phần phục hồi kinh tế dù ngân sách nhà nước có thiệt một ít.

Tính từ khi Luật Thuế TNCN sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-7-2013 đến nay, CPI đã tăng hơn 25,17% và cần phải điều chỉnh ngưỡng thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 1 Luật Thuế TNCN (sửa đổi, bổ sung năm 2012). Thế nhưng đến nay, ngưỡng thu nhập chịu thuế vẫn giữ nguyên.

Bên cạnh đó, ngưỡng chịu thuế cũng đã lỗi thời so với lương tối thiểu. Cụ thể, Nghị định số 157/2018/NĐ-CP ngày 16-11-2018 của Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 1-1-2019, quy định: Lương tối thiểu vùng I tăng lên 4,18 triệu đồng/tháng; vùng II là 3,71 triệu đồng/tháng; vùng III là 3,25 triệu đồng/tháng và vùng IV là 2,92 triệu đồng/tháng. Lấy mốc năm 2013, năm Luật Thuế TNCN có hiệu lực, thì mức lương tối thiểu hiện nay đã tăng 76-80%.

Đức Minh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 117,200
AVPL/SJC HCM 114,900 117,200
AVPL/SJC ĐN 114,900 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 113.600
TPHCM - SJC 114.900 117.200
Hà Nội - PNJ 111.000 113.600
Hà Nội - SJC 114.900 117.200
Đà Nẵng - PNJ 111.000 113.600
Đà Nẵng - SJC 114.900 117.200
Miền Tây - PNJ 111.000 113.600
Miền Tây - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 37.440
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 11,410
Trang sức 99.9 10,980 11,400
NL 99.99 10,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,490 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,490 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,490 11,720
Cập nhật: 08/06/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 08/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/06/2025 08:00