Sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân

Điều chỉnh ngưỡng thu nhập chịu thuế

06:49 | 31/08/2019

407 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mới đây, nhiều tài xế Grab đã phản ứng việc bất ngờ bị thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) 60.000 đồng/ngày thông qua ví tài khoản, bất kể tài xế có chạy xe hay không. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, Luật Thuế TNCN sửa đổi cần điều chỉnh và không cào bằng thu nhập chịu thuế nhằm tạo sự công bằng.

Hãng taxi công nghệ Grab mới đây đã áp dụng chính sách thu thuế TNCN 60.000 đồng/ngày thông qua ví tài khoản, bất kể tài xế có chạy xe hay không, khiến nhiều tài xế phản ứng tiêu cực. Theo thông báo phát đi từ Grab, tỷ lệ phần trăm để tính thuế giá trị gia tăng (GTGT) trên doanh thu từ cước phí vận tải được chia sẻ là 3%, thuế TNCN là 1,5%. Đối với các khoản tiền thưởng theo doanh thu, cá nhân nộp thuế TNCN theo tỷ lệ 1% trên tiền thưởng.

dieu chinh nguong thu nhap chiu thue
Không tăng mức giảm trừ gia cảnh sẽ gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp

Trường hợp Grab là một ví dụ điển hình cho thấy, sau 6 năm triển khai, Luật Thuế TNCN đang bộc lộ những hạn chế, lỗi thời, đòi hỏi các nhà làm luật phải xem xét nghiêm túc việc điều chỉnh, sửa đổi luật phù hợp với thực tiễn.

Thực tế, thuế suất thuế TNCN hiện tại được tính theo lũy tiến, thấp nhất là 5%, mức cao nhất là 35% trên thu nhập, khá cao. Thuế thu nhập doanh nghiệp trước đây là 32% trên thu nhập chịu thuế, sau các lần điều chỉnh, đã giảm xuống lần lượt còn 28%, 25% và hiện nay là 20%. Trong khi đó, thuế TNCN cao nhất vẫn là 35%. Khoảng cách điều tiết của biểu thuế cũng rất dày, chỉ cần thu nhập nhích một chút là lên bậc thuế cao hơn. Hiện ở Singapore, thuế suất khởi điểm của thuế TNCN là 2%, tối đa 22%; Malaysia tối thiểu 1%, tối đa 28%; Campuchia tối thiểu 5%, tối đa 20%... Rõ ràng thuế suất tối thiểu và tối đa của thuế TNCN ở nước ta tương đối cao.

Ông Nguyễn Thái Sơn, nguyên Trưởng phòng thuế TNCN (Cục Thuế TP HCM) cho hay, trước đây, khi xây dựng Luật Thuế TNCN, các cơ quan soạn thảo cũng tính đến phương án cho phép khấu trừ đối với một số khoản chi có hóa đơn. Tuy nhiên, thời điểm đó, thói quen mua hàng lấy hóa đơn chưa phổ biến, nếu áp dụng sẽ bị cho là làm khó. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, khấu trừ như vậy sẽ “thoáng” quá, không thu đủ thuế. Nhưng thời gian đã chứng minh nguồn thuế TNCN rất ổn định. Thậm chí, dù mức giảm trừ gia cảnh tăng từ năm 2013 nhưng không ảnh hưởng nhiều đến số thu thuế TNCN các năm sau. Vì vậy, cách tính thuế TNCN tới đây nên mở ra, thoáng hơn, cần điều chỉnh như thuế thu nhập doanh nghiệp, tránh sự khập khiễng giữa các sắc thuế.

Trong bối cảnh hiện nay của nước ta, cải cách thuế TNCN cần lưu ý đến nhu cầu dân sinh. Từ nửa cuối năm 2007 đến nay, nền kinh tế nước ta liên tục phải đối phó với tình trạng lạm phát cao và những bất ổn vĩ mô. Giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nước liên tục tăng, ngay cả khi lạm phát đỡ căng thẳng thì giá cả cũng đã lên một mặt bằng mới, khiến thu nhập thực tế của người dân bị giảm mạnh.

Luật thuế TNCN hiện nay tương đối lạc hậu với sự phát triển của nền kinh tế, có khá ít các khoản giảm trừ. Điều này làm nảy sinh sự bất bình đẳng khi có thu nhập chịu thuế được giảm trừ gia cảnh, có thu nhập chịu thuế không được giảm trừ gia cảnh. Vì thế, nhiều ý kiến cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát thuế TNCN, trước mắt cần điều tiết giảm trừ gia cảnh, tăng mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế và người phụ thuộc.

Chia sẻ về vấn đề này, anh Lương Ngọc Tú, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Sao Việt, cho rằng: “Việc không điều chỉnh kịp thời mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân và người phụ thuộc là một điều không công bằng cho người đóng thuế TNCN. CPI tăng, lương tối thiểu tăng, thu nhập bình quân đầu người tăng, nhưng mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên, dẫn đến tiền lương danh nghĩa của các đối tượng chịu thuế mặc dù tăng nhưng thực tế bị giảm sút nghiêm trọng”.

Người lao động càng ngày càng khó khăn, eo hẹp trong chi tiêu mà thu nhập không tăng tương xứng. Luật Thuế TNCN hiện nay đang làm khó người lao động. Chúng ta không xem xét lại thuế TNCN, không tăng mức giảm trừ gia cảnh, nghĩa là chúng ta đã gây khó khăn cho người dân và suy cho cùng là doanh nghiệp. Nếu người dân giảm chi tiêu thì doanh nghiệp buộc phải giảm sản xuất - anh Tú nhấn mạnh.

Tại Hội nghị phổ biến những điểm mới của Luật Quản lý thuế sửa đổi 2019 ngày 27-8-2019, bà Tạ Thị Phương Lan, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý TNCN, Bộ Tài chính xác nhận: Luật Thuế TNCN hiện hành (hiệu lực từ 1-7-2013) quy định, khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động ở mức cao hơn 20% thì Chính phủ sẽ trình Quốc hội để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Tuy nhiên, sau 6 năm thực thi, đến nay nhiều quy định của Luật Thuế TNCN không còn phù hợp cần phải sửa đổi, bổ sung. Theo tính toán, từ ngày 1-7-2013 đến hết tháng 7-2019, CPI đã vượt 20%, đây là điều kiện để trình mức điều chỉnh với Quốc hội. Tuy nhiên, hiện Chính phủ chưa trình phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo biến động giá.

Về vấn đề giảm trừ gia cảnh, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam nên theo nguyên lý thuế TNCN của nhiều nước đang làm rất hiệu quả. Tức là việc tính thuế phải theo mức thu nhập của hộ gia đình. Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh của hai người phụ thuộc được tính bằng mức giảm trừ của một người có thu nhập tính thuế. Đó là cách tính bảo đảm công bằng cho người nộp thuế.

Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, đầu tiên Chính phủ phải kiểm soát lạm phát, sau đó mới xem xét có điều chỉnh hay không. Bởi việc điều chỉnh này liên quan tới tổng thể chính sách thuế. Bên cạnh giảm trừ gia cảnh cũng cần xem xét, khấu trừ các chi phí hợp lệ khác của người dân như khám chữa bệnh, giáo dục, làm từ thiện, mua bán nhà đất... có hóa đơn, chứng từ đầy đủ. Nếu không giảm trừ các khoản chi phí hợp lệ thì mới cần thiết xem xét mức giảm trừ gia cảnh.

Qua thực tế biến động của giá cả thị trường, thu nhập của người dân cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc xem xét lại cách tính thuế và mức giảm trừ gia cảnh để vừa giảm bớt khó khăn cho người nộp thuế, nhất là đối với những người nộp thuế ở các bậc thấp, vừa bảo đảm khả năng điều chỉnh thuế linh hoạt hơn theo thực tiễn của nền kinh tế và thu nhập của người dân. Nếu Luật thuế TNCN sửa đổi vẫn theo những con số tuyệt đối cứng nhắc sẽ không thể đáp ứng đòi hỏi này. Vì thế, nên tính toán giảm thuế cho người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn hiện nay để thúc đẩy chi tiêu, sản xuất, góp phần phục hồi kinh tế dù ngân sách nhà nước có thiệt một ít.

Tính từ khi Luật Thuế TNCN sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-7-2013 đến nay, CPI đã tăng hơn 25,17% và cần phải điều chỉnh ngưỡng thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 1 Luật Thuế TNCN (sửa đổi, bổ sung năm 2012). Thế nhưng đến nay, ngưỡng thu nhập chịu thuế vẫn giữ nguyên.

Bên cạnh đó, ngưỡng chịu thuế cũng đã lỗi thời so với lương tối thiểu. Cụ thể, Nghị định số 157/2018/NĐ-CP ngày 16-11-2018 của Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 1-1-2019, quy định: Lương tối thiểu vùng I tăng lên 4,18 triệu đồng/tháng; vùng II là 3,71 triệu đồng/tháng; vùng III là 3,25 triệu đồng/tháng và vùng IV là 2,92 triệu đồng/tháng. Lấy mốc năm 2013, năm Luật Thuế TNCN có hiệu lực, thì mức lương tối thiểu hiện nay đã tăng 76-80%.

Đức Minh

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,485 ▲50K 7,700 ▲50K
Trang sức 99.9 7,475 ▲50K 7,690 ▲50K
NL 99.99 7,480 ▲50K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,460 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,000 ▲300K 76,900 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,000 ▲300K 77,000 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 74,900 ▲300K 76,200 ▲300K
Nữ Trang 99% 73,446 ▲297K 75,446 ▲297K
Nữ Trang 68% 49,471 ▲204K 51,971 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 29,429 ▲126K 31,929 ▲126K
Cập nhật: 19/04/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,012 16,112 16,562
CAD 18,213 18,313 18,863
CHF 27,574 27,679 28,479
CNY - 3,474 3,584
DKK - 3,577 3,707
EUR #26,598 26,633 27,893
GBP 31,207 31,257 32,217
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.48 161.48 169.43
KRW 16.57 17.37 20.17
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,261 2,341
NZD 14,705 14,755 15,272
SEK - 2,264 2,374
SGD 18,210 18,310 19,040
THB 637.31 681.65 705.31
USD #25,175 25,175 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25230 25280 25470
AUD 16028 16078 16483
CAD 18247 18297 18699
CHF 27852 27902 28314
CNY 0 3477.8 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26783 26833 27335
GBP 31358 31408 31861
HKD 0 3115 0
JPY 163.06 163.56 179.85
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14733 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18493 18493 18844
THB 0 649.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 11:00