ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc

09:39 | 02/01/2024

18,096 lượt xem
|
Từ những kết quả đạt được trong năm 2023, TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên kỳ vọng, năm 2024 nền kinh tế Việt Nam sẽ có những triển vọng khởi sắc hơn, khả quan hơn dưới sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt hơn nữa của Chính phủ, đề ra các giải pháp căn cơ để phục hồi nền kinh tế. Trong đó, hệ thống pháp luật từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, bất động sản, tài chính, tín dụng…
ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
TS.Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên

Kinh tế Việt Nam năm 2024: Nhiều triển vọng khởi sắc

Phóng viên: Năm 2024, dự báo nền kinh tế sẽ được phục hồi tốt hơn. Tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, trong đó nêu rõ chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt từ 6%-6,5% trong năm 2024. Vậy đại biểu có kỳ vọng gì về triển vọng kinh tế của nước ta trong năm tới?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Tôi nghĩ rằng, với những kết quả đạt được từ năm 2023, chúng ta kỳ vọng năm 2024 sẽ đạt được những kết quả tốt hơn, khởi sắc hơn về kinh tế - xã hội trong bối cảnh trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi.

Thứ nhất, hệ thống nền tảng pháp luật của chúng ta đang được tháo gỡ từng bước những khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trong những lĩnh vực có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt liên quan đến sản xuất kinh doanh, liên quan đến bất động sản, liên quan đến những vấn đề về tài chính, tín dụng… đang được từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Thứ hai, trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta vẫn có những điểm sáng, đặc biệt là trong xuất khẩu nông sản với rất nhiều ngành hàng hiện nay đang có giá trị xuất khẩu lớn. Và rất nhiều ngành đã đạt được con số trên 1 tỉ USD, đặc biệt là ngành rau quả.

Bên cạnh đó, lúa gạo vẫn là nền tảng, giữ vị trí quan trọng trong xuất khẩu hiện nay, vừa bảo đảm an ninh lương thực trong nước, vừa tăng cường xuất khẩu để đóng góp ngoại tệ cho đất nước.

Có thể nói, nông nghiệp vẫn đang trên đà ổn định và Chính phủ đang từng bước tích cực tháo gỡ những khó khăn, rào cản đối với việc thực hiện các Hiệp định thương mại quốc tế với EU, AFTA hay là tiếp tục mở rộng các thị trường sang khu vực khác như khu vực Mỹ Latinh bên cạnh các thị trường truyền thống.

Với sự kết hợp rất nhiều biện pháp cũng như những kết quả đạt được trong năm 2023 và những chỉ đạo trong công tác điều hành của Chính phủ, đặc biệt là sự nỗ lực của người dân, doanh nghiệp, năm 2024, tôi hi vọng rằng triển vọng kinh tế nước ta sẽ đạt kết quả khả quan hơn và tốt hơn.

ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
Ảnh minh họa

Còn về mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 6% - 6,5% thì tất nhiên đó là kỳ vọng của chúng ta. Tuy nhiên, tôi thấy rằng, chúng ta sẽ bị tác động, ảnh hưởng rất nhiều từ các yếu tố:

Thứ nhất, phụ thuộc vào các thị trường nước ngoài trong bối cảnh về địa chính trị đang có nhiều biến động và diễn biến phức tạp, sẽ trực tiếp tác động đến chuỗi kinh tế toàn cầu mà nền kinh tế nước ta đang có độ mở lớn và phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố đó.

Thứ hai, phụ thuộc vào những nỗ lực từ phía trong nước, đặc biệt là vấn đề tháo gỡ những khó khăn về thể chế, về cơ chế, chính sách kịp thời cho người dân và doanh nghiệp.

Thứ ba, phụ thuộc những biện pháp can thiệp của Nhà nước trong hỗ trợ, chính sách phát triển, đặc biệt liên quan đến chính sách về tín dụng và vốn đầu tư. Đó là những vấn đề quan trọng.

Bên cạnh đó, còn liên quan đến yếu tố về đầu tư nước ngoài, FDI vẫn là một lĩnh vực chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế của nước ta. Chúng ta cần thiết lập một chính sách ổn định nhằm thu hút được đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vừa góp phần để thu hút đầu tư mới, vừa để tăng cường mở rộng tái đầu tư. Và việc Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2023/QH15 về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua cũng là một nội dung quan trọng, bên cạnh việc thực hiện những quy định của các nước thành viên OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), mặt khác phải có những chính sách ưu đãi nhất định để kịp thời giữ chân cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.

Như vậy, với những động thái tích cực và những kết quả đạt được của năm 2023, tôi hy vọng rằng, năm 2024 nền kinh tế của nước ta sẽ có những triển vọng tốt hơn, khởi sắc hơn.

Điểm sáng trong lĩnh vực công nghiệp

Phóng viên: Đại biểu vừa cho thấy những điểm sáng trong lĩnh vực nông nghiệp, vậy lĩnh vực công nghiệp của nước ta có những điểm sáng nào không, thưa đại biểu?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Công nghiệp nước ta cũng có những điểm sáng nhất định liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục được đầu tư, đặc biệt là liên quan đến các ngành chế tạo, các ngành máy tính, điện tử và bán dẫn là những ngành hiện nay đang bắt kịp được thị trường thế giới và chúng ta đang định hướng được cho những lĩnh vực này. Và Chính phủ quyết định sắp tới tiến hành đào tạo để có được khoảng 50.000 nhân lực cho ngành chế tạo bán dẫn, vì vậy đây cũng là một ngành quan trọng.

Bên cạnh đó, một số ngành khác liên quan đến sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô tô hoặc một số những ngành để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước tiếp tục có những khởi sắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những sự khởi sắc đó, chúng ta cũng gặp khó khăn liên quan đến các ngành dệt may và ngành gỗ. Các ngành này hiện đang bị tác động rất nhiều bởi yếu tố thị trường, bởi những rào cản kỹ thuật mà bắt buộc chúng ta phải hội nhập trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn xanh của nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Điều này đòi hỏi bắt buộc các ngành công nghiệp trong nước phải có những thay đổi để có thể giữ được những đơn hàng và mở rộng các thị trường và những đơn hàng mới. Đây là những yêu cầu bắt buộc mà chúng ta phải làm.

ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
Lĩnh vực công nghiệp cũng là một điểm sáng, liên quan đến các ngành chế tạo, các ngành máy tính, điện tử và bán dẫn, chế tạo, lắp ráp ô tô... (Ảnh minh họa)

Phóng viên: Đại biểu vừa đề cập ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được đánh giá là một trong những động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Vậy đại biểu có kiến nghị giải pháp gì để thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển của ngành công nghiệp này?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Công nghiệp chế tạo luôn được xác định là một ngành chủ đạo tuy nhiên thị phần ngành công nghiệp chế tạo của nước ta hiện nay chưa được nhiều. Đối với các nước phát triển, ngành công nghiệp chế tạo rất quan trọng với các thiết bị máy móc, các công nghiệp nền tảng để phục vụ cho các ngành sản xuất khác. Trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo của nước ta chưa nhiều.

Tôi nhận thấy, trong một thời gian dài chúng ta tiếp cận theo hướng là phát triển những ngành để hướng tới xuất khẩu nhiều hơn. Nhưng phần công nghiệp nền, công nghiệp chế tạo đòi hỏi phải có nền tảng công nghệ về kỹ thuật cao thì chúng ta chưa tiếp cận được nhiều. Chủ yếu chúng ta đang đi theo hướng bắt kịp những gì mà chúng ta hội nhập được nhanh, còn đối với công nghiệp chế tạo nền tảng, hiện nay chúng ta phải xác lập lại và định hướng lại để có những chính sách phù hợp, đặc biệt có những đầu tư phù hợp, có những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này. Từ đó chúng ta mới có thể xây dựng được nền công nghiệp tiên tiến và hiện đại, hội nhập với quốc tế.

Ngành cơ khí và ngành chế tạo là những ngành công nghiệp nền tảng rất quan trọng, bắt buộc phải có những chính sách, đầu tư tập trung. Để thực hiện được, chúng ta cần quan tâm đến rất nhiều vấn đề như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế khuyến khích, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, chính sách ưu đãi, ưu tiên. Chúng ta thấy rằng, trong các Nghị quyết cũng đã nêu vấn đề này, nhưng việc thể chế hóa để trở thành nhận thức cho việc thực hiện thì chúng ta còn đang trong tiến trình.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu.

Theo Cổng TTĐT Quốc hội

Dự cảm kinh tế Việt Nam 2024: Nhà đầu tư ngoại lạc quanDự cảm kinh tế Việt Nam 2024: Nhà đầu tư ngoại lạc quan
Tin tức kinh tế ngày 1/1: Lệ phí trước bạ ô tô lắp ráp trong nước tăng trở lạiTin tức kinh tế ngày 1/1: Lệ phí trước bạ ô tô lắp ráp trong nước tăng trở lại
Sản xuất công nghiệp: Hóa giải thách thức, tạo “đòn bẩy” cho năm 2024Sản xuất công nghiệp: Hóa giải thách thức, tạo “đòn bẩy” cho năm 2024

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Hà Nội - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đà Nẵng - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Miền Tây - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Tây Nguyên - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,540 ▲310K 14,790 ▲190K
Trang sức 99.9 14,530 ▲310K 14,780 ▲190K
NL 99.99 14,540 ▲310K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,540 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Thái Bình 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Nghệ An 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Hà Nội 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 146 ▼1295K 14,802 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 146 ▼1295K 14,803 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,442 ▲19K 1,464 ▲19K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,442 ▲19K 1,465 ▲19K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 ▲1279K 1,449 ▲1306K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 ▲1881K 143,465 ▲1881K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 ▲1425K 108,836 ▲1425K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 ▲90293K 98,692 ▲97718K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 ▲1159K 88,548 ▲1159K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 ▲1108K 84,635 ▲1108K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 ▲792K 60,579 ▲792K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cập nhật: 15/10/2025 19:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16652 16921 17493
CAD 18233 18509 19123
CHF 32269 32652 33284
CNY 0 3470 3830
EUR 30006 30279 31302
GBP 34352 34744 35683
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14780 15366
SGD 19791 20073 20587
THB 725 788 841
USD (1,2) 26077 0 0
USD (5,10,20) 26118 0 0
USD (50,100) 26146 26181 26369
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,166 26,166 26,369
USD(1-2-5) 25,120 - -
USD(10-20) 25,120 - -
EUR 30,254 30,278 31,407
JPY 171.14 171.45 178.52
GBP 34,780 34,874 35,670
AUD 16,925 16,986 17,415
CAD 18,479 18,538 19,051
CHF 32,656 32,758 33,414
SGD 19,968 20,030 20,636
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,338 3,348 3,428
KRW 17.17 17.91 19.22
THB 776.28 785.87 835.42
NZD 14,806 14,943 15,280
SEK - 2,737 2,815
DKK - 4,047 4,161
NOK - 2,568 2,640
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.75 - 6,552.97
TWD 781.2 - 939.35
SAR - 6,928.45 7,247.93
KWD - 83,867 88,598
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16818 16918 17529
CAD 18407 18507 19111
CHF 32504 32534 33409
CNY 0 3660.9 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30178 30208 31231
GBP 34651 34701 35822
HKD 0 3390 0
JPY 170.41 170.91 177.95
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19943 20073 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 15/10/2025 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 19:45