ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc

09:39 | 02/01/2024

18,094 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Từ những kết quả đạt được trong năm 2023, TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên kỳ vọng, năm 2024 nền kinh tế Việt Nam sẽ có những triển vọng khởi sắc hơn, khả quan hơn dưới sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt hơn nữa của Chính phủ, đề ra các giải pháp căn cơ để phục hồi nền kinh tế. Trong đó, hệ thống pháp luật từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, bất động sản, tài chính, tín dụng…
ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
TS.Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên

Kinh tế Việt Nam năm 2024: Nhiều triển vọng khởi sắc

Phóng viên: Năm 2024, dự báo nền kinh tế sẽ được phục hồi tốt hơn. Tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, trong đó nêu rõ chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt từ 6%-6,5% trong năm 2024. Vậy đại biểu có kỳ vọng gì về triển vọng kinh tế của nước ta trong năm tới?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Tôi nghĩ rằng, với những kết quả đạt được từ năm 2023, chúng ta kỳ vọng năm 2024 sẽ đạt được những kết quả tốt hơn, khởi sắc hơn về kinh tế - xã hội trong bối cảnh trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi.

Thứ nhất, hệ thống nền tảng pháp luật của chúng ta đang được tháo gỡ từng bước những khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trong những lĩnh vực có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt liên quan đến sản xuất kinh doanh, liên quan đến bất động sản, liên quan đến những vấn đề về tài chính, tín dụng… đang được từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Thứ hai, trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta vẫn có những điểm sáng, đặc biệt là trong xuất khẩu nông sản với rất nhiều ngành hàng hiện nay đang có giá trị xuất khẩu lớn. Và rất nhiều ngành đã đạt được con số trên 1 tỉ USD, đặc biệt là ngành rau quả.

Bên cạnh đó, lúa gạo vẫn là nền tảng, giữ vị trí quan trọng trong xuất khẩu hiện nay, vừa bảo đảm an ninh lương thực trong nước, vừa tăng cường xuất khẩu để đóng góp ngoại tệ cho đất nước.

Có thể nói, nông nghiệp vẫn đang trên đà ổn định và Chính phủ đang từng bước tích cực tháo gỡ những khó khăn, rào cản đối với việc thực hiện các Hiệp định thương mại quốc tế với EU, AFTA hay là tiếp tục mở rộng các thị trường sang khu vực khác như khu vực Mỹ Latinh bên cạnh các thị trường truyền thống.

Với sự kết hợp rất nhiều biện pháp cũng như những kết quả đạt được trong năm 2023 và những chỉ đạo trong công tác điều hành của Chính phủ, đặc biệt là sự nỗ lực của người dân, doanh nghiệp, năm 2024, tôi hi vọng rằng triển vọng kinh tế nước ta sẽ đạt kết quả khả quan hơn và tốt hơn.

ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
Ảnh minh họa

Còn về mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 6% - 6,5% thì tất nhiên đó là kỳ vọng của chúng ta. Tuy nhiên, tôi thấy rằng, chúng ta sẽ bị tác động, ảnh hưởng rất nhiều từ các yếu tố:

Thứ nhất, phụ thuộc vào các thị trường nước ngoài trong bối cảnh về địa chính trị đang có nhiều biến động và diễn biến phức tạp, sẽ trực tiếp tác động đến chuỗi kinh tế toàn cầu mà nền kinh tế nước ta đang có độ mở lớn và phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố đó.

Thứ hai, phụ thuộc vào những nỗ lực từ phía trong nước, đặc biệt là vấn đề tháo gỡ những khó khăn về thể chế, về cơ chế, chính sách kịp thời cho người dân và doanh nghiệp.

Thứ ba, phụ thuộc những biện pháp can thiệp của Nhà nước trong hỗ trợ, chính sách phát triển, đặc biệt liên quan đến chính sách về tín dụng và vốn đầu tư. Đó là những vấn đề quan trọng.

Bên cạnh đó, còn liên quan đến yếu tố về đầu tư nước ngoài, FDI vẫn là một lĩnh vực chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế của nước ta. Chúng ta cần thiết lập một chính sách ổn định nhằm thu hút được đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vừa góp phần để thu hút đầu tư mới, vừa để tăng cường mở rộng tái đầu tư. Và việc Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2023/QH15 về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua cũng là một nội dung quan trọng, bên cạnh việc thực hiện những quy định của các nước thành viên OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), mặt khác phải có những chính sách ưu đãi nhất định để kịp thời giữ chân cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.

Như vậy, với những động thái tích cực và những kết quả đạt được của năm 2023, tôi hy vọng rằng, năm 2024 nền kinh tế của nước ta sẽ có những triển vọng tốt hơn, khởi sắc hơn.

Điểm sáng trong lĩnh vực công nghiệp

Phóng viên: Đại biểu vừa cho thấy những điểm sáng trong lĩnh vực nông nghiệp, vậy lĩnh vực công nghiệp của nước ta có những điểm sáng nào không, thưa đại biểu?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Công nghiệp nước ta cũng có những điểm sáng nhất định liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục được đầu tư, đặc biệt là liên quan đến các ngành chế tạo, các ngành máy tính, điện tử và bán dẫn là những ngành hiện nay đang bắt kịp được thị trường thế giới và chúng ta đang định hướng được cho những lĩnh vực này. Và Chính phủ quyết định sắp tới tiến hành đào tạo để có được khoảng 50.000 nhân lực cho ngành chế tạo bán dẫn, vì vậy đây cũng là một ngành quan trọng.

Bên cạnh đó, một số ngành khác liên quan đến sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô tô hoặc một số những ngành để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước tiếp tục có những khởi sắc.

Tuy nhiên, bên cạnh những sự khởi sắc đó, chúng ta cũng gặp khó khăn liên quan đến các ngành dệt may và ngành gỗ. Các ngành này hiện đang bị tác động rất nhiều bởi yếu tố thị trường, bởi những rào cản kỹ thuật mà bắt buộc chúng ta phải hội nhập trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn xanh của nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Điều này đòi hỏi bắt buộc các ngành công nghiệp trong nước phải có những thay đổi để có thể giữ được những đơn hàng và mở rộng các thị trường và những đơn hàng mới. Đây là những yêu cầu bắt buộc mà chúng ta phải làm.

ĐBQH Nguyễn Lâm Thành: Kỳ vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 - Nhiều triển vọng khởi sắc
Lĩnh vực công nghiệp cũng là một điểm sáng, liên quan đến các ngành chế tạo, các ngành máy tính, điện tử và bán dẫn, chế tạo, lắp ráp ô tô... (Ảnh minh họa)

Phóng viên: Đại biểu vừa đề cập ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được đánh giá là một trong những động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Vậy đại biểu có kiến nghị giải pháp gì để thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển của ngành công nghiệp này?

TS.Nguyễn Lâm Thành, ĐBQH tỉnh Thái Nguyên: Công nghiệp chế tạo luôn được xác định là một ngành chủ đạo tuy nhiên thị phần ngành công nghiệp chế tạo của nước ta hiện nay chưa được nhiều. Đối với các nước phát triển, ngành công nghiệp chế tạo rất quan trọng với các thiết bị máy móc, các công nghiệp nền tảng để phục vụ cho các ngành sản xuất khác. Trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo của nước ta chưa nhiều.

Tôi nhận thấy, trong một thời gian dài chúng ta tiếp cận theo hướng là phát triển những ngành để hướng tới xuất khẩu nhiều hơn. Nhưng phần công nghiệp nền, công nghiệp chế tạo đòi hỏi phải có nền tảng công nghệ về kỹ thuật cao thì chúng ta chưa tiếp cận được nhiều. Chủ yếu chúng ta đang đi theo hướng bắt kịp những gì mà chúng ta hội nhập được nhanh, còn đối với công nghiệp chế tạo nền tảng, hiện nay chúng ta phải xác lập lại và định hướng lại để có những chính sách phù hợp, đặc biệt có những đầu tư phù hợp, có những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này. Từ đó chúng ta mới có thể xây dựng được nền công nghiệp tiên tiến và hiện đại, hội nhập với quốc tế.

Ngành cơ khí và ngành chế tạo là những ngành công nghiệp nền tảng rất quan trọng, bắt buộc phải có những chính sách, đầu tư tập trung. Để thực hiện được, chúng ta cần quan tâm đến rất nhiều vấn đề như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế khuyến khích, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, chính sách ưu đãi, ưu tiên. Chúng ta thấy rằng, trong các Nghị quyết cũng đã nêu vấn đề này, nhưng việc thể chế hóa để trở thành nhận thức cho việc thực hiện thì chúng ta còn đang trong tiến trình.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu.

Theo Cổng TTĐT Quốc hội

Dự cảm kinh tế Việt Nam 2024: Nhà đầu tư ngoại lạc quanDự cảm kinh tế Việt Nam 2024: Nhà đầu tư ngoại lạc quan
Tin tức kinh tế ngày 1/1: Lệ phí trước bạ ô tô lắp ráp trong nước tăng trở lạiTin tức kinh tế ngày 1/1: Lệ phí trước bạ ô tô lắp ráp trong nước tăng trở lại
Sản xuất công nghiệp: Hóa giải thách thức, tạo “đòn bẩy” cho năm 2024Sản xuất công nghiệp: Hóa giải thách thức, tạo “đòn bẩy” cho năm 2024

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • bidv-don-tet-gia-dinh
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 97,700 ▲600K 100,200 ▲100K
AVPL/SJC HCM 97,700 ▲600K 100,200 ▲100K
AVPL/SJC ĐN 97,700 ▲600K 100,200 ▲100K
Nguyên liệu 9999 - HN 97,500 ▲1000K 99,300 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 97,400 ▲1000K 99,200 ▲100K
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 97.700 ▲200K 100.200 ▲100K
TPHCM - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Hà Nội - PNJ 97.700 ▲200K 100.200 ▲100K
Hà Nội - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Đà Nẵng - PNJ 97.700 ▲200K 100.200 ▲100K
Đà Nẵng - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Miền Tây - PNJ 97.700 ▲200K 100.200 ▲100K
Miền Tây - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 97.700 ▲200K 100.200 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 97.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 97.700 ▲600K 100.200 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 97.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 97.700 ▲200K 100.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 97.700 ▲300K 100.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 97.600 ▲800K 100.100 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 97.500 ▲900K 100.000 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 96.900 ▲7700K 99.400 ▲7700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 96.700 ▲24050K 99.200 ▲24050K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 72.730 ▲7080K 75.230 ▲7080K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 56.210 ▼6440K 58.710 ▼6440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.290 ▼19360K 41.790 ▼19360K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 89.290 ▲33140K 91.790 ▲33140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 58.710 ▲19460K 61.210 ▲19460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 62.720 ▲27570K 65.220 ▲27570K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 65.720 ▲35070K 68.220 ▲35070K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.190 ▲35190K 37.690 ▲37690K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.680 ▲30680K 33.180 ▲33180K
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 9,650 ▲20K 10,010 ▼20K
Trang sức 99.9 9,640 ▲20K 10,000 ▼20K
NL 99.99 9,650 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 9,650 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 9,780 ▲20K 10,020 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 9,780 ▲20K 10,020 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 9,780 ▲20K 10,020 ▼20K
Miếng SJC Thái Bình 9,770 ▲60K 10,020 ▲10K
Miếng SJC Nghệ An 9,770 ▲60K 10,020 ▲10K
Miếng SJC Hà Nội 9,770 ▲60K 10,020 ▲10K
Cập nhật: 08/04/2025 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15177 15440 16035
CAD 17775 18049 18679
CHF 29652 30024 30701
CNY 0 3358 3600
EUR 27754 28018 29070
GBP 32328 32711 33681
HKD 0 3215 3420
JPY 169 173 180
KRW 0 0 19
NZD 0 14210 14813
SGD 18701 18979 19522
THB 662 725 779
USD (1,2) 25729 0 0
USD (5,10,20) 25768 0 0
USD (50,100) 25796 25830 26142
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,775 25,775 26,135
USD(1-2-5) 24,744 - -
USD(10-20) 24,744 - -
GBP 32,676 32,751 33,631
HKD 3,284 3,291 3,391
CHF 29,836 29,866 30,705
JPY 172.87 173.15 180.87
THB 687.19 721.38 772.24
AUD 15,528 15,551 15,972
CAD 18,082 18,108 18,599
SGD 18,874 18,952 19,554
SEK - 2,550 2,640
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,740 3,869
NOK - 2,335 2,416
CNY - 3,501 3,596
RUB - - -
NZD 14,258 14,347 14,767
KRW 15.4 - 18.26
EUR 27,928 27,973 29,177
TWD 710.12 - 858.99
MYR 5,400.4 - 6,091.8
SAR - 6,797.67 7,155.48
KWD - 82,081 87,277
XAU - - 99,500
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,800 26,140
EUR 27,864 27,976 29,103
GBP 32,541 32,672 33,636
HKD 3,276 3,289 3,397
CHF 29,646 29,765 30,666
JPY 172.16 172.85 180.19
AUD 15,419 15,481 15,999
SGD 18,899 18,975 19,513
THB 727 730 761
CAD 17,989 18,061 18,585
NZD 14,296 14,798
KRW 16.81 18.50
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25860 25860 26140
AUD 15383 15483 16054
CAD 17971 18071 18622
CHF 30007 30037 30928
CNY 0 3509.3 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 27989 28089 28962
GBP 32689 32739 33841
HKD 0 3320 0
JPY 174.02 174.52 181.04
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.2 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 14353 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 18878 19008 19741
THB 0 691.3 0
TWD 0 770 0
XAU 9770000 9770000 10020000
XBJ 8800000 8800000 10020000
Cập nhật: 08/04/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,810 25,860 26,140
USD20 25,810 25,860 26,140
USD1 25,810 25,860 26,140
AUD 15,441 15,591 16,661
EUR 28,122 28,272 29,447
CAD 17,923 18,023 19,340
SGD 18,937 19,087 19,554
JPY 173.35 174.85 179.5
GBP 32,748 32,898 33,776
XAU 9,768,000 0 10,022,000
CNY 0 3,391 0
THB 0 727 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/04/2025 20:45