Đầu tư cổ phiếu theo chiến tranh thương mại

12:26 | 06/10/2018

351 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dù chiến tranh thương mại “leo thang”, thì cả thế giới đều vẫn cần ăn cá, mặc áo quần... Việc nhắm vào cổ phiếu thủy sản hay dệt may như vừa qua được cho là một dạng đầu tư xuất phát từ tâm lý này.
Đầu tư cổ phiếu theo chiến tranh thương mại
Thủy sản là một trong những nhóm ngành đã và đang được hưởng lợi từ chiến tranh thương mại.

Chiến tranh thương mại đã và đang tạo ra cơ hội cho một số nhóm ngành của Việt Nam đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu. Song, cuộc chiến này cũng tiềm ẩn rủi ro rút vốn của khối ngoại.

Nhóm thủy sản “lên hương”?

Chiến tranh thương mại leo thang đã và đang khiến phần lớn nhà đầu tư toàn cầu tỏ ra quan ngại về rủi ro với các nền kinh tế và đặc biệt dòng tiền đổ vào các thị trường cận biên như Việt Nam có thể giảm xuống. Tuy nhiên, rủi ro luôn đồng hành cùng cơ hội. VN-Index sau giai đoạn suy giảm mạnh đã có những phiên giao dịch tích cực.

Cùng những chuỗi ngày tươi mới này, một số cổ phiếu đã lấy lại mức tăng trưởng tích cực. Cổ phiếu của CTCP Thủy sản Vĩnh Hoàn (VHC) đã tăng mạnh từ 54.000đ/cp ở tháng 7, lên thẳng trên 92.000đ/cp đầu tháng 10, tăng gấp đôi thị giá sau hơn 60 ngày.

Cùng với sự tích cực chung của thị trường, VHC còn được hỗ trợ bởi thông tin cá tra xuất khẩu vào Mỹ được hưởng thuế 0%. Ngoài ra, Trung Quốc cũng mở cửa chào đón 221 mặt hàng thủy sản từ các quốc gia thành viên được ưu tiên của WTO, trong đó có Việt Nam.

Mỹ và Trung Quốc là 2/4 nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất Việt Nam, cũng là 2 nhân vật chính trong cuộc chiến thương mại, nhưng đồng thời hồ hởi với cá tra Việt, khiến ngành thủy sản lạc quan về mục tiêu sớm đạt 10 tỷ USD xuất khẩu trong năm nay.

Nếu Trump nhắm đến các quốc gia khác để giảm nhập siêu thì Việt Nam có thể sẽ là mục tiêu. Nếu điều này xảy ra, thì rủi ro sẽ rất lớn. Bởi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam .

Thực tế không dễ sớm lạc quan như vậy, ngay cả khi thị trường toàn cầu luôn cần cá, mực, bạch tuộc, tôm hay thịt fillet đông lạnh. Thống kê 8 tháng 2018 cho thấy, xuất khẩu thủy sản Việt Nam chỉ đạt 5,09 tỷ USD, tăng hơn 6% so với cùng kỳ. Tôm và hải sản nhìn chung theo thống kê của VASEP đều giảm, trừ cá tra và cá ngừ đại dương. Như vậy, chỉ có “dân” cá tra và có thị trường vững như VHC, hay mở rộng ra như CTCP Hùng Vương (HVG), mới được xem là hưởng lợi từ… chiến tranh thương mại.

Tuy nhiên, cổ phiếu HVG đang lội sâu dưới mệnh giá. Cty này hiện đang có khoản lỗ lũy kế sau 9 tháng niên độ 2017-2018 đạt trên 340 tỷ đồng, thuộc diện doanh nghiệp có lỗ khủng với lũy kế lên tới trên 600 tỷ đồng. Theo đó, kể cả thủy sản có cơ hội nổi sóng nhờ chiến tranh thương mại, thì việc “đu” thuyền HVG vẫn bị nhiều nhà đầu tư khoanh vùng nguy cơ bị úp đá ngầm sóng dữ.

Một số ngành sẽ thực sự hưởng lợi?

Theo nghiên cứu của CTCK HSC, một số ngành và cổ phiếu cũng có thể được hưởng lợi trong trung- dài hạn nhờ chiến tranh thương mại. Nguyên do các nhà sản xuất Bắc Á buộc phải chuyển hoạt động sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Theo đó, thương mại cảng biển, dịch vụ hàng hóa hàng không và thậm chí các khu công nghiệp (KCN) hay dệt may đều có cơ hội rất lớn.

HSC nhấn mạnh rằng, các KCN sẽ được lợi trong trung - dài hạn khi ngày càng nhiều Cty di dời đến Việt Nam. Các KCN tại Việt Nam chắc chắn sẽ được hưởng lợi trước hết từ sự gia tăng của dòng vốn FDI. Cùng với đó, ngành may mặc sẽ giành thêm các đơn hàng nước ngoài khi bất lợi về thuế sẽ làm suy giảm tính cạnh tranh của Trung Quốc. Do hàng may mặc Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ chịu mức thuế bình quân khoảng 10%, ngành may mặc của Việt Nam có thể gia tăng thêm thị phần tại Mỹ.

TS. Nguyễn Xuân Thành, Trường Đại học Chính sách công và Quản lý Fulbright, ước tính với mức thuế áp lên 25% mà chính quyền Trump dự kiến thi hành vào đầu năm sau đối với hàng Trung Quốc, thì tỷ trọng kim ngạch các mặt hàng Hoa Kỳ nhập khẩu từ Việt Nam như gỗ, nội thất, nông sản và thực phẩm chế biến, túi xách, máy móc thiết bị cơ khí, máy móc thiết bị điện tử, nhựa cao su…sẽ tăng thêm. Tuy nhiên, nằm trong top các thị trường có kim ngạch xuất khẩu với Mỹ lớn nhất, Việt Nam cũng có nguy cơ bị trừng phạt thương mại từ Mỹ.

Cần lưu ý rằng, trước mắt tuy chưa có vụ trừng phạt thương mại nào đối với Việt Nam, song không ít ngành hàng của Việt Nam đã bị tổn thương vì chính sách thuế nặng dành cho các mặt hàng xuất từ Việt Nam có hàm lượng hay nguồn gốc “made in China”, điển hình như thép. Do đó, các chuyên gia đánh giá, không thể chỉ “lạc quan” một chiều rằng, ngành nào mà trong chiến tranh thương mại, Trung Quốc hay Mỹ vẫn mở rộng cửa nhập hàng Việt với thuế suất 0%, thì ngành đó luôn giữ được lợi thế để đặt kỳ vọng “leo thang” cổ phiếu.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Ảnh hưởng thế nào tới dầu khí?
Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tươi sáng
Xung đột thương mại Mỹ - Trung: Tìm đến sự cân bằng mới, không phải tàn sát lẫn nhau!
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đi theo “con đường” Mao Trạch Đông
Trump: Chiến tranh thương mại không ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung: "Công nghệ rác thải" và "vốn ô nhiễm" tăng tốc vào Việt Nam

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 15:45