"Đấu trí" trước ngày nổ súng
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau ngày chiến thắng tại chiến trường Điện Biên Phủ. Ảnh: Triệu Đại
Tôi điện ngay cho bộ phận trinh sát đi Lai Châu phải về ngay Điện Biên Phủ, phối hợp với các đơn vị tại chỗ bám sát và điều tra tình hình địch, hằng ngày báo cáo về Cục Quân báo, đồng thời tăng cường trinh sát kỹ thuật theo dõi liên tục địch ở Điện Biên Phủ, Lai Châu và Thượng Lào, vì ta được tin có một cánh quân địch từ Lào tiến về Điện Biên Phủ. Trước tình hình đó, chúng tôi cử đồng chí Hùng Châu - một cán bộ giỏi ở Ban Hỏi cung - đi gấp lên trại tù binh cùng Mạc Lâm để khai thác ngay viên sĩ quan Pháp ta mới bắt được ở Điện Biên Phủ.
Vài ngày sau, chúng tôi nhận được báo cáo và một sơ đồ về Điện Biên Phủ với nhận xét về giá trị đặc biệt quan trọng của dải đồi phía đông sông Nậm Rốm: Nếu tổ chức phòng ngự ở đây, nhất thiết quân Pháp phải chiếm các đồi này, còn ở phía tây là cánh đồng Mường Thanh rộng, xa hơn nữa là dải núi không có giá trị chiến thuật trực tiếp cho phòng ngự. Anh Văn nhận được báo cáo này rất thích thú, anh khen anh em hỏi cung và nhắc chúng tôi “bồi dưỡng” cho viên sĩ quan tù binh đó.
Sau đó, anh Văn nói tôi không đi Khu 3 nữa mà ở lại theo dõi và nắm địch ở hướng Lai Châu, Điện Biên Phủ và Thượng Lào. Ngày 26/11/1953, tôi và bộ phận quân báo đi lên Điện Biên Phủ bằng xe vận tải. Đường xóc, chúng tôi mệt lử. Đến Nà Sản, chúng tôi dừng lại để nghiên cứu tận mắt tập đoàn cứ điểm này. Đang ở Nà Sản thì anh Văn điện cho tôi biết tin địch ở Điện Biên Phủ vừa đốt khói và dặn phải theo dõi sát tình hình, e chúng rút. Tôi hiểu rõ mối quan tâm của Tổng Tư lệnh.
Chúng tôi hành quân đến Sở chỉ huy lâm thời cách Tuần Giáo 15km trên đường vào Điện Biên Phủ. Đối với tôi, công tác điều tra và nắm địch ở Điện Biên Phủ lúc này là trọng tâm số 1. Bộ phận trinh sát kỹ thuật bám sát địch suốt ngày đêm, kết hợp với trinh sát mặt đất. Qua tin chúng tôi được biết: Ngày 3/12/1953, địch đưa thêm 3 tiểu đoàn lên Điện Biên Phủ, thành lập “Binh đoàn hành quân Tây Bắc” do Đờ Cát chỉ huy. Đến cuối tháng 12, địch tăng thêm 3 tiểu đoàn nữa. Chỉ trong vòng hơn 1 tháng, quân địch ở Điện Biên Phủ đã tăng lên đến 12 tiểu đoàn cùng các binh chủng khác với tổng số là 12.000 quân.
Diễn biến tình hình trên đã đủ cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, trận đánh then chốt nhất của Đông Xuân 1953-1954. Điện Biên Phủ đã trở thành “một hội chiến” ngoài dự kiến của ta cũng như của địch. Cuộc hội chiến không hẹn mà gặp, ta thì lo địch chạy, còn địch lo ta không dám đánh. Cuộc đấu trí đến đây đã bước vào giai đoạn quyết liệt.
Tôi còn nhớ một kỷ niệm, đang lúc chuẩn bị họp bộ phận tham mưu đi trước bàn kế hoạch tác chiến do anh Hoàng Văn Thái chủ trì, thì hai đồng chí trinh sát mang một thùng chiến lợi phẩm mới lấy được ở Mường Thanh đến gặp tôi, báo cáo: “Đơn vị chúng em tiềm nhập vào Mường Thanh thu được một tập bản đồ về Điện Biên Phủ và một gói quà Noel của địch mới thả dù xuống hôm kia. Bản đồ xin nộp lên Bộ còn gói quà xin biếu thủ trưởng, kèm theo cả biên lai ghi rõ gửi từ Hà Nội”. Chúng tôi ôm nhau cười ran. Anh em trinh sát là thế, vui nhộn, hơi ngang tàng tự do một chút, nhưng rất gan dạ, mưu trí và tình cảm. Anh Thái biết tin này rất vui, anh chỉ thị mang ngay về Cục Bản đồ để in hàng loạt phát cho đơn vị. Chiến sĩ trinh sát Trần Phận-người lấy được tập bản đồ-được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba ngay sau đó.
Thiếu tướng Cao Pha (thứ ba, từ trái sang) trong lần tháp tùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới thăm Sở chỉ huy Chiến dịch tại Mường Phăng. Ảnh tư liệu
Tôi tranh thủ xuống sát Điện Biên Phủ để quan sát trận địa. Từ đài quan sát của ta, tôi thấy được gần như toàn cảnh bố trí của địch ở phía đông, đúng như lời khai của viên sĩ quan tù binh Pháp trước đây. Địch đã chiếm các mỏm đồi A, C, D... và qua ống nhòm, tôi thấy rõ địch đang củng cố công sự. Sau khi trao đổi, nhắc anh em cần theo dõi tình hình các đơn vị địch mới tăng cường cuối tháng 12, tôi về sở chỉ huy đôn đốc việc làm sa bàn để kịp phục vụ cho Đảng ủy chiến dịch dự kiến họp sau khi anh Văn lên.
Ngày 14/1/1954, Bộ Chỉ huy chiến dịch triệu tập hội nghị cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên phổ biến kế hoạch tác chiến. Bộ Tham mưu chiến dịch báo cáo kế hoạch với phương châm “Đánh nhanh, giải quyết nhanh”, hướng tây, tây bắc là chủ yếu; hướng bắc là thứ yếu, hướng đông là hướng phối hợp. Dự kiến ngày 20/1/1954 nổ súng. Chỉ huy các hướng bổ sung tình hình địch và nhất trí cao với kế hoạch đã trình bày. Không khí phấn khởi và lạc quan, mặc dù có chút phân vân, vì e không kịp kéo pháo vào trận địa. Anh Văn kết luận hội nghị và lưu ý từ nay đến ngày nổ súng cần chú ý theo dõi tình hình địch, đôn đốc việc kéo pháo. Anh quyết định lùi giờ nổ súng vào ngày 25/1/1954.
Sau hội nghị, cơ quan Quân báo chiến dịch triển khai nắm tình hình địch rất khẩn trương. Hằng ngày, anh Văn nhắc chúng tôi phải cảnh giác chú ý theo dõi địch ở hướng tây, tây bắc. Tôi thấy anh suy nghĩ nhiều về hướng chủ yếu này, hướng do đơn vị anh Vương Thừa Vũ và anh Lê Trọng Tấn đảm nhiệm. Anh thường gọi tôi lên báo cáo và trao đổi về tình hình địch, đặc biệt anh chú ý đến vấn đề công sự của chúng. Một hôm, anh Hiếu-Bí thư của anh Văn-tới gặp tôi, anh cho biết dạo này anh Văn suy nghĩ nhiều, ít ngủ hơn trước, anh còn phàn nàn có nhiều cán bộ không thông cảm với anh em công binh và anh em kéo pháo, không chịu giúp đỡ anh em khắc phục khó khăn mà chỉ nặng quy về tư tưởng…
Gần đến ngày nổ súng, vào sáng 23/1, anh Văn gọi tôi lên, nói: “Cao Pha xuống đi theo Đại đoàn 312, đơn vị này tiến công từ phía bắc, phải diệt một số cứ điểm dọc sân bay rồi phát triển vào tung thâm. Tôi thấy hướng này đánh sâu như vậy sẽ gặp khó khăn, do đó cần đi cùng đơn vị để nắm tình hình, kịp thời khai thác tin tức, hỏi cung tù binh, một mặt giúp anh Tấn, mặt khác kịp thời báo cáo về”. Anh còn dặn thêm: “Trên này sẽ gay go, ác liệt đấy, không đơn giản đâu!”. Tôi hứa với anh sẽ hoàn thành nhiệm vụ.
Buổi chiều hôm đó, tôi cùng anh Mạc Lâm đi xuống Sở chỉ huy Đại đoàn 312 đóng quân gần Bản Kéo. Tôi báo cáo anh Tấn công việc anh Văn giao, nghe xong anh hỏi: “Cậu đã tìm được hầm hố gì ở chưa, nếu chưa có thì ở ngay đây với mình”. Sự chu đáo của anh Tấn khiến tôi cảm động. Nhớ lại trước đây, anh đã dìu dắt tôi trong chiến đấu và giới thiệu tôi vào Đảng. Tôi gắn bó mật thiết với anh và coi anh như anh trai mình.
Cả hai ngày 24 và 25/1/1954, tôi tranh thủ nắm lại tình hình địch và nghiên cứu kế hoạch tác chiến của đại đoàn. Gần đến trưa 26/1, anh Lê Trọng Tấn cho tôi biết: “Đại tướng ra lệnh đình chỉ tiến công và kéo pháo ra”. Nghe anh nói, tôi sững sờ, nhưng rồi cũng gật gù. Sau đó ít phút, tôi nhận được điện thoại nói tôi về Sở Chỉ huy chiến dịch gấp. Về đến nơi, tôi được biết, do địch tăng cường phòng ngự lên phía tây và sự triển khai các trận địa pháo của ta chưa tốt nên anh Văn quyết định thay đổi phương châm từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”.
Đến đây, tôi mới rõ nỗi băn khoăn suốt 10 ngày qua của anh Văn. Rõ ràng, anh đã suy nghĩ kỹ và với tinh thần trách nhiệm rất cao để dũng cảm, quyết tâm thay đổi cách đánh và đã được Bộ Chính trị, Bác Hồ phê duyệt. Tôi lại nhớ chuyện diễn ra cách đó 4 năm, trong Chiến dịch Biên giới (1950), Trung ương Đảng đã quyết định đánh Cao Bằng để mở màn chiến dịch. Là Trưởng ban Quân báo của mặt trận, tôi đưa Đại tướng lên đài quan sát và nghiên cứu trận địa địch. Trên đường về, đêm đó ngủ tại một bản gần thị xã, tôi thấy anh Văn đi đi lại lại, suy nghĩ lung lắm, rồi anh nói với chúng tôi nỗi băn khoăn của mình: “Ở Cao Bằng địch đóng một trung đoàn trong công sự vững chắc. Bộ đội ta tuy được trang bị và học tập tốt hơn trước, nhưng đánh vào một cứ điểm mạnh như vậy chưa thật chắc thắng”. Sau đó, ý kiến của anh Văn đã được thảo luận trong Đảng ủy Mặt trận, được Bác Hồ phê duyệt tại chỗ để ta chọn hướng tiến công chủ yếu là Đông Khê và giành thắng lợi to lớn…
Trong ngày chiến thắng 7/5/1954, khoảng 17 giờ 30 phút, anh Lê Trọng Tấn báo cáo về Bộ Chỉ huy đã bắt được Đờ Cát và toàn bộ cơ quan tham mưu của địch. Tôi cùng anh Hùng Châu, Mạc Lâm, Mạnh Thái... đến “trò chuyện” nhiều hơn là hỏi cung các sĩ quan cao cấp Pháp vừa bị bắt. Tất cả đều ủ rũ. Chúng tôi hỏi cảm tưởng của tướng Đờ Cát về Điện Biên Phủ. Ông ta trả lời: “Các ông có hiểu không, Điện Biên Phủ phiên âm bằng tiếng Pháp là Deviensfou, nghĩa là tôi đã trở thành “thằng điên”. Chúng tôi cười phá lên vì trước khi Đờ Cát đầu hàng, bộ phận trinh sát kỹ thuật đã thu được cuộc trò chuyện, trao đổi qua vô tuyến điện giữa Cô-nhi (Chỉ huy chiến trường Bắc Bộ của Pháp) với Đờ Cát như sau: “Cô-nhi: Tiens bien!” (Giữ cho tốt!). Đờ Cát trả lời: “Fou” (Điên!)…
Năm 1984, khi anh Hùng Châu sang Pa-ri công tác, anh đã gặp lại tướng Đờ Cát. Ông ta có nói rằng, muốn trở lại thăm Việt Nam và Điện Biên Phủ để “bắt tay” các tướng lĩnh của chúng ta và giải tỏa phần nào tâm lý, nhưng có lẽ vì già yếu nên Đờ Cát đã không thực hiện được mong muốn của mình. Ông ta mất năm 1991.
Theo Lê Hải Triều - Báo QĐND
-
Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến dịch Bình Giã
-
Chiến thắng Bình Giã: Sức mạnh toàn dân làm nên mốc son lịch sử
-
Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ: Viết tiếp những bản hùng ca bất diệt
-
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự chương trình nghệ thuật đặc biệt "Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử"
-
[PetroTimesTV] Tọa đàm "Tiếp lửa truyền thống - Cống hiến tương lai"
-
UNCLOS 1982 - "Xương sống" để Việt Nam ban hành chính sách và hệ thống pháp luật về biển
-
Đảm bảo tính khả thi của các quy định trong dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân
-
Thống nhất thuế suất ưu đãi 10% đối với tất cả các loại hình báo chí
-
Quốc hội xem xét rút ngắn nhiệm kỳ, ấn định ngày bầu cử Quốc hội khóa XVI và HĐND các cấp
-
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: Động lực mới cho phát triển kinh tế