"Cú sốc" dầu Nga báo hiệu làn sóng tăng giá thứ hai sắp bắt đầu

23:04 | 23/04/2022

9,557 lượt xem
|
Sản lượng dầu thô sụt giảm được xác định bởi các hình ảnh vệ tinh báo trước một đợt tăng giá dầu lâu dài hơn.
Cú sốc dầu Nga báo hiệu làn sóng tăng giá thứ hai sắp bắt đầu - 1
Về mặt nghĩa đen, ánh sáng đang mờ dần trong ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga (Ảnh: Reuters).

Theo Bloomberg, Điện Kremlin đang làm mọi cách để che giấu những tác động của các lệnh trừng phạt chính thức và không chính thức của phương Tây đối với ngành năng lượng nước này. Nhưng Moscow không thể giấu được các vệ tinh trên bầu trời Siberia đo ánh sáng phát ra từ các giàn khai thác dầu mỏ. Sản lượng khai thác càng nhiều ánh sáng phát ra càng mạnh và ngược lại.

Có thể nói về mặt nghĩa đen, ánh sáng đang mờ dần trong ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga.

Dữ liệu này kết hợp với thông tin từ các thương nhân và các số liệu rò rỉ từ thống kê chính thức của Nga cho thấy 8 tuần sau cuộc chiến nổ ra, Moscow cuối cùng cũng chịu tác động nặng nề từ các lệnh trừng phạt của phương Tây và việc tẩy chay tự nguyện của nhiều doanh nghiệp. Sản lượng dầu của Nga đã giảm trung bình 10% so với trước khi chiến sự nổ ra.

Bloomberg dự báo nhiều khả năng sản lượng sẽ còn giảm mạnh hơn do các nhà máy lọc dầu và các thương nhân rời khỏi Nga khi các hợp đồng cung cấp hết hạn vào những tuần tới.

Trong khi đó, Liên minh châu Âu, khách hàng nhập khẩu dầu lớn nhất của Nga, đang cân nhắc các bước để giảm mua dầu của Nga và có thể sẽ đưa dầu mỏ Nga vào gói trừng phạt tiếp theo.

Đối với người tiêu dùng và các ngân hàng trung ương đang phải gồng mình chống lạm phát, sản lượng dầu của Nga sụt giảm báo hiệu sự khởi đầu của làn sóng tăng giá dầu thứ 2 và có thể kéo dài hơn.

Đối với ông Putin, tác động thậm chí còn cao hơn. Cho đến nay, nguồn thu từ việc bán dầu và khí đốt đã giúp Nga chống đỡ với các lệnh trừng phạt quốc tế, ổn định đồng rúp và cung cấp tài chính cho bộ máy quân sự. Sự sụt giảm sản lượng sẽ gây sóng gió cho nền kinh tế Nga về dài hạn.

Giai đoạn đầu của cú sốc giá dầu từ cuộc xung đột Nga - Ukraine diễn ra mạnh mẽ nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Sản lượng của Nga hồi phục cao hơn dự kiến, các vụ đóng cửa do Covid-19 tại Trung Quốc làm giảm nhu cầu dầu và việc Mỹ cùng các đồng minh giải phóng hàng triệu thùng dầu dự trữ chiến lược… khiến giá dầu Brent, từ mức 139,13 USD/thùng vào ngày 7/3 - những ngày đầu chiến sự, giảm gần 30% xuống 97,57 USD/thùng vào ngày 11/4.

Giai đoạn tăng giá thứ 2 của giá dầu dường như diễn ra chậm hơn nhưng có thể sẽ kéo dài lâu hơn và có nguy cơ tàn phá nền kinh tế nhiều hơn. Giá dầu Brent đang hồi phục trở lại gần mức 110 USD/thùng, và mức giá có thể tăng dần khi thị trường cảm nhận sự thiếu hụt của nguồn cung. Trong khi đó, mùa cao điểm tiêu thụ xăng dầu ở Bắc bán cầu chỉ còn khoảng 2 tháng rưỡi nữa sẽ bắt đầu. Khi mùa hè đến người dân Mỹ có nhu cầu du lịch bằng xe hơi nhiều hơn, do đó, giá xăng chắc chắn sẽ tăng.

Giá dầu Brent trong năm nay tính đến thời điểm này ở mức trung bình 99,2 USD/thùng. Năm 2008, khi giá dầu đạt mức cao nhất mọi thời đại, giá trung bình cùng kỳ ở mức 98,4 USD/thùng. Tác nhân để hạ nhiệt giá dầu lúc này chỉ có thể là tin xấu về kinh tế, ví như suy thoái ở Mỹ và châu Âu sẽ cản trở giá dầu tăng trên 100 USD/thùng.

OilX, công ty tư vấn sử dụng dữ liệu hình ảnh từ các vệ sinh của NASA để đo ánh sáng, đánh giá sản lượng dầu của Nga có thể giảm mạnh hơn trong những tháng tới. Công ty này ước tính sản lượng dầu của Nga đầu tháng này có lúc giảm xuống còn 9,76 triệu thùng/ngày. Trung bình trong 2 tuần đầu tháng 4, Nga bơm khoảng 10,2 triệu thùng/ngày, giảm mạnh so với mức 11,1 triệu thùng/ngày hồi tháng 2 và 11 triệu thùng/ngày trong tháng 3.

Bản thân các công ty dầu mỏ của Nga cũng cho biết nhu cầu của quốc tế đối với các sản phẩm của họ đang đi xuống. Công ty dầu khí Rosneft PJSC do nhà nước Nga kiểm soát đang cố bán hàng triệu thùng dầu ở châu Âu và châu Á thông qua các hợp đồng dài hạn với các nhà giao dịch hàng hóa như Vitol Group, Trafigura Group và Glencore Plc. Tuy nhiên, các nhà giao dịch phương Tây đang đối mặt với thời hạn 15/5 - ngày EU hạn chế giao dịch với Rosneft và các công ty của Nga để cung cấp cho khối. Vì vậy, lúc này họ chỉ có thể giảm bớt các giao dịch chứ không dám mở thêm.

Nếu tình trạng sụt giảm về sản lượng khai thác vẫn tiếp tục và giảm sâu trong tháng 5 như giới phân tích dự đoán, thì quy luật cung cầu sẽ chiếm ưu thế. Điều đó có nghĩa giá dầu đang chuẩn bị tăng cao lần nữa.

Theo Dân trí

Cách phương Tây vẫn âm thầm mua dầu của NgaCách phương Tây vẫn âm thầm mua dầu của Nga
Cuộc chiến ở Ukraine: Ai thiệt hơn ai?Cuộc chiến ở Ukraine: Ai thiệt hơn ai?
Lo gián đoạn nguồn cung khí đốt, Anh miễn trừng phạt một ngân hàng NgaLo gián đoạn nguồn cung khí đốt, Anh miễn trừng phạt một ngân hàng Nga
Chủ tịch tập đoàn dầu mỏ khổng lồ của Nga Lukoïl từ chứcChủ tịch tập đoàn dầu mỏ khổng lồ của Nga Lukoïl từ chức
Đức nêu lý do chưa thể ngừng nhập khẩu dầu Nga lúc nàyĐức nêu lý do chưa thể ngừng nhập khẩu dầu Nga lúc này
Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện "giá đó thì lên tivi mua"

  • bidv-14-4
  • thp
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Hà Nội - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Đà Nẵng - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Miền Tây - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Tây Nguyên - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,030 ▲50K 15,330 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,030 ▲50K 15,330 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,030 ▲50K 15,330 ▲50K
NL 99.99 14,210 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,210 ▲50K
Trang sức 99.9 14,620 ▲50K 15,220 ▲50K
Trang sức 99.99 14,630 ▲50K 15,230 ▲50K
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,522 ▲8K 15,422 ▲80K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,522 ▲8K 15,423 ▲80K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,497 ▲1348K 1,522 ▲7K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,497 ▲1348K 1,523 ▲7K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,482 ▲7K 1,512 ▲7K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 145,203 ▲130752K 149,703 ▲134802K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 106,061 ▲525K 113,561 ▲525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95,476 ▲95381K 102,976 ▲101951K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,891 ▲427K 92,391 ▲427K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,808 ▲80004K 88,308 ▲87429K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,707 ▲292K 63,207 ▲292K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Cập nhật: 28/11/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16709 16978 17555
CAD 18263 18539 19153
CHF 32112 32494 33126
CNY 0 3470 3830
EUR 29918 30191 31219
GBP 34120 34511 35434
HKD 0 3258 3460
JPY 162 166 172
KRW 0 17 18
NZD 0 14771 15360
SGD 19799 20081 20605
THB 735 798 851
USD (1,2) 26107 0 0
USD (5,10,20) 26149 0 0
USD (50,100) 26177 26197 26412
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,192 26,192 26,412
USD(1-2-5) 25,145 - -
USD(10-20) 25,145 - -
EUR 30,185 30,209 31,355
JPY 165.66 165.96 172.91
GBP 34,529 34,622 35,427
AUD 17,006 17,067 17,510
CAD 18,505 18,564 19,089
CHF 32,471 32,572 33,246
SGD 19,969 20,031 20,651
CNY - 3,678 3,776
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.67 17.38 18.66
THB 783.18 792.85 843.64
NZD 14,822 14,960 15,310
SEK - 2,744 2,824
DKK - 4,037 4,154
NOK - 2,558 2,633
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,986.75 - 6,716.63
TWD 762.34 - 917.84
SAR - 6,932.14 7,256.6
KWD - 83,852 88,668
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,190 26,192 26,412
EUR 30,001 30,121 31,290
GBP 34,287 34,425 35,438
HKD 3,322 3,335 3,446
CHF 32,193 32,322 33,254
JPY 164.74 165.40 172.54
AUD 16,910 16,978 17,536
SGD 19,989 20,069 20,637
THB 797 800 836
CAD 18,460 18,534 19,093
NZD 14,856 15,385
KRW 17.28 18.90
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26070 26070 26412
AUD 16888 16988 17924
CAD 18448 18548 19560
CHF 32355 32385 33959
CNY 0 3691.8 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30102 30132 31857
GBP 34406 34456 36217
HKD 0 3390 0
JPY 165.24 165.74 176.25
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14886 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19950 20080 20812
THB 0 763.8 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15220000 15220000 15420000
SBJ 13000000 13000000 15420000
Cập nhật: 28/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,202 26,252 26,412
USD20 26,202 26,252 26,412
USD1 23,898 26,252 26,412
AUD 16,931 17,031 18,141
EUR 30,255 30,255 31,370
CAD 18,389 18,489 19,801
SGD 20,027 20,177 20,736
JPY 165.55 167.05 171
GBP 34,485 34,635 35,411
XAU 15,138,000 0 15,342,000
CNY 0 3,573 0
THB 0 799 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/11/2025 11:00