Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn giữ đà tăng trưởng

13:29 | 09/07/2018

244 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thông tin từ Bộ Công Thương, chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng năm 2018 tiếp tục đà tăng trưởng (tăng 10,5%), trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành sản xuất phân phối điện tiếp tục có mức tăng trưởng tốt, cao hơn so với mức tăng cùng kỳ, là những yếu tố tạo động lực vững chắc để đạt được mục tiêu kế hoạch tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp (tăng trên 9%).

6 tháng đầu năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 12,9%, quý II tăng 8,4%), cao hơn mức tăng 7% của cùng kỳ năm 2017. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục là điểm sáng dẫn dắt tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng 12,7%, đóng góp 9,7 điểm phần trăm vào mức tăng chung (quý I tăng 15,7%; quý II tăng 10,1%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,4%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 1,3% (chủ yếu do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 5,7%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm mức tăng chung.

cong nghiep che bien che tao van giu da tang truong 127
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2018 tăng 10,5%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp như: Sản xuất kim loại tăng 20,7%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 20,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 18,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 17,5% (quý I tăng mạnh 30,1% nhưng quý II chỉ tăng 4%, nguyên nhân chủ yếu do năm nay Công ty TNHH Samsung Electronics tập trung sản xuất các dòng điện thoại cao cấp vào tháng 2 và tháng 3, trong khi năm 2017 sản xuất chủ yếu vào tháng 4 và tháng 5). Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất thuốc lá tăng 2,7%; khai khoáng khác (đá, cát, sỏi…) giảm 0,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 2,7%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 5,7% (khai thác dầu thô giảm 10,9% và khai thác khí đốt tự nhiên giảm 0,2%)...

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sắt, thép thô tăng 43,7%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 22,1%; đường kính tăng 18,9%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 18,5%; thức ăn cho thủy sản tăng 17,8%; tivi tăng 17%; thép thanh, thép góc tăng 16%. Tuy nhiên có một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Điện thoại di động tăng 2,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 2%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 0,2%; phân urê giảm 1,8%; dầu thô khai thác giảm 10,9%.

Như vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2018 tiếp tục đà tăng trưởng (tăng 10,5%), trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành sản xuất phân phối điện tiếp tục có mức tăng trưởng tốt, cao hơn so với mức tăng cùng kỳ, là những yếu tố tạo động lực vững chắc để đạt được mục tiêu kế hoạch tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp (tăng trên 9%).

cong nghiep che bien che tao van giu da tang truong 127
Công nghiệp khai khoáng giảm 1,3%, mức giảm thấp nhất trong 5 năm qua.

Trong đó, sản xuất của nhóm ngành khai khoáng giảm 1,3%. Đây là mức giảm thấp so với năm trước (cùng kỳ năm 2017 giảm 6,7%). 6 tháng đầu năm, ngành khai thác khoáng sản có những thuận lợi như giá dầu thô, giá một số loại khoáng sản tăng, tình hình tiêu thụ ngành than tăng hơn so với cùng kỳ, cùng với các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp khoáng sản của Chính phủ, một số loại khoáng sản đã tiêu thụ được lượng tồn kho... Do đó, hầu hết các đơn vị trong ngành đã hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất trong 6 tháng, tạo đà cho việc hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch cả năm 2018.

Sản xuất của nhóm công nghiệp chế biến chế tạo tuy xu hướng tăng trưởng chậm dần nhưng vẫn tăng cao hơn so với cùng kỳ, giữ vững đà tăng trưởng với mức tăng 12,7% (cùng kỳ tăng 9,7%), tiếp tục khẳng định công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là động lực chính thúc đẩy mức tăng trưởng chung của toàn ngành.

Chỉ số sản xuất và phân phối điện tăng trưởng 10,4%, cao hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm 2017, bảo đảm tốt nhu cầu cho gia tăng trong sản xuất. Ngành điện đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân. Các nhà máy thủy điện đều hoàn thành vượt mức kế hoạch do tình hình thủy văn thuận lợi, các nhà máy nhiệt điện than và tua bin khí huy động cao để giữ mức nước các hồ thuỷ điện, đồng thời đảm bảo vận hành xả nước tại các đập để phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân.

cong nghiep che bien che tao van giu da tang truong 127Tìm lối thoát cho doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện
cong nghiep che bien che tao van giu da tang truong 127Nhộn nhịp triển lãm trực thăng quốc tế tại Nga

Tùng Dương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,000
AVPL/SJC HCM 78,500 80,000
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,000
Nguyên liệu 9999 - HN 76,150 76,750
Nguyên liệu 999 - HN 76,050 76,650
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,000
Cập nhật: 19/07/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 76.300 77.590
TPHCM - SJC 78.500 80.000
Hà Nội - PNJ 76.300 77.590
Hà Nội - SJC 78.500 80.000
Đà Nẵng - PNJ 76.300 77.590
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.000
Miền Tây - PNJ 76.300 77.590
Miền Tây - SJC 78.500 80.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 76.300 77.590
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 76.300
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 76.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 76.200 77.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 56.500 57.900
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.800 45.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.780 32.180
Cập nhật: 19/07/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,525 7,720
Trang sức 99.9 7,515 7,710
NL 99.99 7,530
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,630 7,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,630 7,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,630 7,760
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,000
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,000
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,000
Cập nhật: 19/07/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,000
SJC 5c 78,500 80,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 76,200 77,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 76,200 77,700
Nữ Trang 99.99% 76,000 77,200
Nữ Trang 99% 74,436 76,436
Nữ Trang 68% 50,151 52,651
Nữ Trang 41.7% 29,846 32,346
Cập nhật: 19/07/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,598.05 16,765.71 17,303.68
CAD 18,034.92 18,217.09 18,801.63
CHF 27,886.61 28,168.29 29,072.14
CNY 3,412.86 3,447.33 3,558.48
DKK - 3,639.34 3,778.72
EUR 26,944.41 27,216.57 28,421.98
GBP 32,007.89 32,331.20 33,368.62
HKD 3,158.00 3,189.90 3,292.25
INR - 301.71 313.77
JPY 156.75 158.34 165.91
KRW 15.82 17.58 19.17
KWD - 82,584.42 85,886.55
MYR - 5,367.73 5,484.83
NOK - 2,307.02 2,404.98
RUB - 274.84 304.25
SAR - 6,726.62 6,995.59
SEK - 2,346.93 2,446.59
SGD 18,394.14 18,579.94 19,176.12
THB 621.52 690.57 717.02
USD 25,120.00 25,150.00 25,450.00
Cập nhật: 19/07/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,120.00 25,130.00 25,430.00
EUR 27,117.00 27,226.00 28,361.00
GBP 32,204.00 32,398.00 33,370.00
HKD 3,175.00 3,188.00 3,291.00
CHF 28,045.00 28,158.00 29,038.00
JPY 157.73 158.36 165.80
AUD 16,729.00 16,796.00 17,295.00
SGD 18,515.00 18,589.00 19,137.00
THB 685.00 688.00 717.00
CAD 18,150.00 18,223.00 18,754.00
NZD 15,104.00 15,602.00
KRW 17.53 19.15
Cập nhật: 19/07/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25118 25118 25463
AUD 16840 16890 17395
CAD 18294 18344 18799
CHF 28346 28396 28959
CNY 0 3449.9 0
CZK 0 1047 0
DKK 0 3636 0
EUR 27392 27442 28152
GBP 32602 32652 33319
HKD 0 3265 0
JPY 159.87 160.37 164.88
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 0.9371 0
MYR 0 5565 0
NOK 0 2380 0
NZD 0 15151 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2400 0
SGD 18668 18718 19275
THB 0 663.5 0
TWD 0 780 0
XAU 7850000 7850000 8000000
XBJ 7150000 7150000 7610000
Cập nhật: 19/07/2024 01:02