“Con át chủ bài” của bầu Đức bất ngờ báo lỗ sau khi được cứu

13:46 | 31/10/2018

1,548 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Công ty HAGL Agrico bất ngờ báo lỗ 218,8 tỷ đồng trong quý III/2018, đảo ngược so với kết quả lãi hơn 111 tỷ đồng của cùng kỳ 2017. Kết quả này đã xóa sạch hoàn toàn thành quả từ đầu năm, khiến lũy kế 9 tháng, công ty này ghi nhận lỗ hơn 158 tỷ đồng.
“Con át chủ bài” của bầu Đức bất ngờ báo lỗ sau khi được cứu
​Bầu Đức tham vọng sẽ đưa HAGL Agrico thành một tập đoàn nông nghiệp hàng đầu Việt Nam nói riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung

Đến cuối chiều ngày 30/10, Công ty CP Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Agrico – mã HNG) cũng đã công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2018 cho thấy sự sụt giảm mạnh về lợi nhuận bất chấp doanh thu tăng.

Trong kỳ báo cáo vừa rồi, HNG đạt 1.068,6 tỷ đồng doanh thu, tăng tới 14,1% so với cùng kỳ. Sự tăng trưởng ấn tượng này của doanh thu chủ yếu dựa vào việc bán cây ăn quả.

Cụ thể, doanh thu bán trái cây trong kỳ vừa rồi của HNG đã tăng 316 tỷ đồng so với quý III/2017, tương ứng tăng 1,7 lần lên 766 tỷ đồng. Nguyên nhân được phía HNG cho biết do diện tích thu hoạch trái cây gia tăng.

Ngoài ra, với việc tận dụng được nguồn thu từ các sản phẩm phụ từ ngành nông nghiệp nên doanh thu bán hàng hóa trong kỳ tăng hơn 3,2 lần lên 181 tỷ đồng.

Đáng chú ý là giá vốn hàng bán giảm mạnh 28% xuống còn 467 tỷ đồng, chủ yếu là giảm giá vốn bán bò (giảm 158 tỷ đồng xuống còn 28 tỷ đồng) và giảm giảm giá vốn bán mủ cao su (giảm 89 tỷ đồng còn 74 tỷ đồng). Nhờ đó, lợi nhuận gộp trong kỳ của HNG đã tăng gấp hơn 2 lần lên 601,2 tỷ đồng.

Tuy nhiên, số liệu báo cáo tài chính cũng cho thấy, trong quý III vừa rồi, trong khi doanh thu tài chính giảm hơn 89% so với cùng kỳ, chỉ còn đạt gần 16,6 tỷ đồng thì chi phí tài chính của HNG tăng mạnh gần 24% lên 231 tỷ đồng.

HNG cho biết, trong kỳ công ty đã giảm các khoản cho vay đối với các công ty và cá nhân khác. Đồng thời, với việc diện tích vườn cây đưa vào khai thác tăng nên phần lãi vay tương ứng không được vốn hóa mà đưa vào chi phí hoạt động trong kỳ. Lỗ từ chênh lệch tỷ giá cũng tăng 22 tỷ đồng lên 50 tỷ đồng.

Lãi trong công ty liên kết lại chỉ bằng chưa tới 12% của cùng kỳ; chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đều tăng, lần lượt 2,2 lần và và 14,7%. Đáng nói, lỗ khác tăng gấp 94 lần lên 412,7 tỷ đồng.

Theo HNG, nguyên nhân khiến khoản thu nhập khác trong kỳ bị sụt giảm mạnh là do trong quý III/2017, các công ty con của HNG có điều chỉnh khoản thuế GTGT đầu ra từ việc bán các sản phẩm sản xuất từ cây nông nghiệp và cây công nghiệp sang thu nhập khác sau khi nhận được công văn miễn thuế. Khoản này đã không còn được phát sinh trong quý III/2018.

Bên cạnh đó, chi phí khác cũng tăng mạnh 303 tỷ đồng do thực hiện xóa sổ các tài sản hoạt động không hiệu quả và điều chỉnh chi phí đầu tư vườn cây cọ dầu vào chi phí do chuyển đổi mục đích sang trồng cây ăn trái.

Kết quả, HNG báo lỗ trước thuế 218,8 tỷ đồng trong quý III/2018, đảo ngược so với kết quả lãi hơn 111 tỷ đồng của cùng kỳ 2017. Lỗ sau thuế 227,5 tỷ đồng, trong đó lỗ thuộc về công ty mẹ là 224,8 tỷ đồng.

Luỹ kế 9 tháng, HNG lỗ trước thuế 158,3 tỷ đồng và mức lỗ sau thuế là 174,1 tỷ đồng. Cùng kỳ, HNG có lãi sau thuế tới 952,9 tỷ đồng.

Theo văn bản hợp tác chiến lược giữa Thaco Trường Hải và Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai vào hồi tháng 8 vừa qua, Thaco rót vốn thông qua Hợp đồng mua bán Trái phiếu chuyển đổi HNG chưa phân phối hết cho các cổ đông hiện hữu (để cấn trừ khoản nợ 7.800 tỷ đồng đã đầu tư trước đó vào Hoàng Anh Gia Lai) và thông qua nghiệp vụ mua cổ phiếu với tổng vốn đầu tư hơn 3.800 tỷ đồng. Theo đó Thaco và nhóm cổ đông liên quan sở hữu 35% HAGL Agrico.

Chiến lược cho thời gian tới, hai bên dự định sẽ đưa HAGL Agrico thành một tập đoàn nông nghiệp hàng đầu Việt Nam nói riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung, dựa trên quỹ đất hơn 80.000 ha của HAGL nằm tại khu tam giác phát triển bao gồm Tây Nguyên (Việt Nam), Nam (Lào) và Đông Bắc (Campuchia).

Trước thông tin bất lợi về kết quả kinh doanh, cổ phiếu HNG đã bị giảm kịch sàn, mất 1.000 đồng trong phiên giao dịch ngày 30/10. Tuy nhiên, đến sáng nay (31/10), mã này đã phục hồi nhẹ 1,4% lên 14.000 đồng/cổ phiếu.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,226 16,246 16,846
CAD 18,219 18,229 18,929
CHF 27,240 27,260 28,210
CNY - 3,429 3,569
DKK - 3,555 3,725
EUR #26,328 26,538 27,828
GBP 31,150 31,160 32,330
HKD 3,108 3,118 3,313
JPY 158.78 158.93 168.48
KRW 16.25 16.45 20.25
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,235 2,355
NZD 14,844 14,854 15,434
SEK - 2,259 2,394
SGD 18,086 18,096 18,896
THB 631.59 671.59 699.59
USD #25,070 25,070 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 19:00