Cơn ác mộng lạm phát và "vết nứt" trong lòng châu Âu

13:10 | 13/09/2023

94 lượt xem
|
Tại các nền kinh tế phát triển của châu Âu, tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp tiếp tục vượt xa mức tăng lương. Đức, đầu tàu kinh tế của khu vực này hàng thập kỷ qua, cũng đang "nóng" vì lạm phát.

"Lạm phát tham lam"

Lạm phát tiếp tục hoành hành ở châu Âu. Theo ước tính, khoảng 50% mức tăng giá ở châu Âu bắt nguồn từ việc các công ty địa phương chuyển chi phí cao hơn sang người tiêu dùng hoặc do hiệu ứng tăng giá theo lạm phát.

Đầu năm nay, Cơ quan cạnh tranh và thị trường Anh đã đưa một số chuỗi siêu thị lớn như Asda, Sainsbury's và Tesco vào danh sách theo dõi vì bị cáo buộc trục lợi trong cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt.

Các doanh nghiệp này sau đó đã được gỡ bỏ cáo buộc, nhưng vẫn có quan điểm cho rằng giá cao hơn là do lạm phát tham lam, xảy ra khi doanh nghiệp tìm cách tăng giá để tăng lợi nhuận.

Cơn ác mộng lạm phát và vết nứt trong lòng châu Âu - 1
Lạm phát giá thực phẩm tại châu Âu cao hơn ở Mỹ và Nhật Bản (Ảnh: OECD).

Lạm phát cao từ lâu đã là điều xa lạ đối với các nền kinh tế phát triển, nhưng gần đây cả Mỹ và châu Âu đều phải trải qua những đợt giá cả tăng vọt. Trong khi lạm phát đang giảm ở Mỹ thì tại châu Âu giá cả vẫn duy trì ở mức cao. Trong tháng 7, giá tiêu dùng thực phẩm và các sản phẩm khác đã tăng hơn 10% ở Đức và tăng hơn 14% ở Anh.

Các doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng khiến lạm phát tăng. Trong một phân tích kết quả hàng năm của 70 công ty sản xuất và bán lẻ thực phẩm ở châu Âu, chuyên gia tư vấn quản lý Oliver Wyman nhận ra rằng EBITDA (thu nhập trước lãi vay, thuế và khấu hao) đã tăng 11% tại các hãng bán lẻ thực phẩm và 12% tại các nhà sản xuất trong năm 2022 phần lớn là do doanh thu tăng.

Một phân tích gần đây của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng cho rằng lạm phát không kiểm soát được là do "lòng tham" của các doanh nghiệp. Theo IMF, năm 2022, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp đóng góp tới 45% lạm phát ở châu Âu.

Đức, từng là động lực tăng trưởng chính của châu Âu, có thể sắp phải đối mặt với một đợt suy thoái mới khi lĩnh vực sản xuất cực kỳ quan trọng của nước này tiếp tục suy yếu.

Dữ liệu gần đây cho thấy, sau giai đoạn trì trệ kể từ cuối năm ngoái, sản lượng của Đức có thể sẽ thu hẹp trong quý này do các nhà máy của nước này phải đối mặt với chi phí năng lượng cao hơn và sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc trong các lĩnh vực quan trọng.

Các số liệu thống kê mới đây cho thấy, lạm phát ở Đức đang "nóng" hơn so với hầu hết các nước láng giềng tại châu Âu. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 7 đã tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái và cao hơn nhiều so với mức trung bình 5,3% của Khu vực Đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Để kiềm chế giá cả tăng cao, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng lãi suất cơ bản lên mức cao lịch sử 3,75%, và được dự báo sẽ còn thắt chặt hơn nữa. Tuy nhiên, chi phí đi vay cao hơn đã ảnh hưởng nặng nề đến lĩnh vực xây dựng nhà ở của Đức.

Cơn ác mộng lạm phát và vết nứt trong lòng châu Âu - 2
Đức, từng là động lực tăng trưởng chính của châu Âu, có thể sắp phải đối mặt với một đợt suy thoái mới (Ảnh: Unsplash).

Một cuộc khảo sát của Viện kinh tế Ifo hồi tháng trước cho thấy, hơn 40% số công ty xây dựng được hỏi đã ghi nhận tình trạng thiếu đơn đặt hàng, vượt xa mức 10,8% của cùng kỳ năm ngoái.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo, kinh tế Đức sẽ suy giảm 0,3% trong năm nay, so với mức tăng trưởng trung bình 0,9% của 20 quốc gia thuộc Eurozone. Đức cũng được dự báo sẽ là nền kinh tế duy nhất trong nhóm (G7) có GDP suy giảm trong năm 2023.

Theo cơ quan thống kê Đức, doanh số bán tại các cửa hàng và cửa hàng trực tuyến giảm trong tháng 7. Doanh số bán hàng 7 tháng đầu năm nay giảm 4% so với cùng kỳ năm 2022. Đặc biệt, các hộ gia đình giảm tiêu thụ thực phẩm do giá tăng vọt, lượng thực phẩm mà họ mua giảm 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Gặp khó khăn do nhu cầu trong nước giảm, các nhà sản xuất Đức cũng chịu áp lực ở thị trường nước ngoài. Vào tháng 7, các doanh nghiệp trong nước đã bán lượng hàng hóa trị giá 130,4 tỷ euro cho phần còn lại của thế giới, tiếp tục giảm so với tháng 6.

Các nhà sản xuất Đức cũng đối diện với sự cạnh tranh khốc liệt hơn đến từ các đối tác Trung Quốc, trong những ngành công nghiệp mà họ từng thống trị, như lĩnh vực ô tô.

Viễn cảnh ảm đạm

Do suy giảm sản lượng sản xuất, xuất khẩu và bán lẻ trong tháng 7, nền kinh tế Đức chỉ có thể thoát khỏi đà giảm trong quý hiện tại nếu như chứng kiến đà hồi phục trong cả tháng 8 và tháng 9. Tuy nhiên, một số khảo sát kinh doanh cho thấy hoạt động nhà máy ở Đức vẫn suy yếu.

Theo cuộc khảo sát mà S&P Global thực hiện với các quản lý thu mua, sản lượng nhà máy trong tháng 8 hiện giảm mạnh hơn bất kỳ tháng nào kể từ tháng 5/2020. Cũng có nhiều tín hiệu mới cho thấy sự suy giảm kéo dài đã lan sang những khu vực khác của nền kinh tế.

Cơn ác mộng lạm phát và vết nứt trong lòng châu Âu - 3
(Ảnh: Unsplash).

Chia sẻ với Wall Street Journal, Cyrus de la Rubia, nhà kinh tế đến từ Ngân hàng Thương mại Hamburg, cho rằng: "Tia hy vọng cuối cùng là lĩnh vực dịch vụ có thể tiếp tục mang lại sự ổn định nhất định cho nền kinh tế nói chung. Nhưng sự lạc quan này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, bởi lĩnh vực này sẽ tiếp tục thu hẹp trong thời gian tới".

"Tình trạng nhu cầu hiện tại chỉ có thể được mô tả là ảm đạm", nhà kinh tế học Stefan Chilbe đến từ HSBC, nhấn mạnh với Wall Street Journal.

Theo cơ quan thống kê Đức, lượng đơn đặt hàng tại nhà máy giảm gần 12% trong tháng 7, so với tháng trước đó, đảo ngược mức tăng gần đây nhờ nhu cầu thiết bị quốc phòng tăng. Đây là mức giảm lớn nhất trong một tháng, kể từ tháng 4/2020.

Việc các doanh nghiệp cố gắng tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tăng giá là điều tự nhiên, đặc biệt đối với các công ty đại chúng phải chịu áp lực từ cổ đông. Tuy nhiên, các công ty ở châu Âu đã bị chỉ trích nặng nề vì lương chậm tăng so với mức tăng giá tiêu dùng.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), lợi nhuận doanh nghiệp ở Đức đã tăng 24% từ trước đại dịch Covid-19 đến quý đầu năm 2023, trong khi chi phí lao động chỉ tăng 13%. Xu hướng tương tự có thể được quan sát thấy ở hầu hết các nước châu Âu.

Trong tháng 7, doanh số bán lẻ của Mỹ đã tăng 0,7%, tháng tăng thứ 4 liên tiếp và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Tại khu vực đồng tiền chung châu Âu, doanh số bán lẻ giảm theo năm do thu nhập thực tế giảm.

Cơn ác mộng lạm phát và vết nứt trong lòng châu Âu - 4
(Ảnh: Bloomberg).

Giá thực phẩm cũng tiếp tục tăng ở Nhật Bản. Theo OECD, quốc gia này đã chứng kiến chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,3% trong tháng 7, giá thực phẩm tăng hơn 9%, gần bằng tốc độ tăng ở châu Âu.

Các công ty Nhật Bản từ lâu đã không muốn tăng giá, với nhiều công ty tập trung vào việc cắt giảm chi phí thay vì chuyển chi phí cao hơn sang người tiêu dùng, nhưng số tiền họ có thể cắt giảm là có giới hạn. Theo OECD, lợi nhuận doanh nghiệp ở Nhật Bản tăng 4% từ quý cuối năm 2019 đến quý đầu năm nay nhưng tiền lương chỉ tăng nhẹ.

Đà tăng trưởng thu nhập yếu ở Nhật Bản và giá cả đã dẫn đến khoảng cách sức mua ngày càng lớn so với các nước khác, khiến nước này trở thành nơi mua sắm "rẻ" đối với du khách nước ngoài. Hành vi ít "tham lam" hơn của các công ty Nhật Bản có thể đã giúp chi tiêu hộ gia đình tăng lên, nhưng tiền lương vẫn bị giữ ở mức thấp.

Theo Dân trí

Châu Âu “bất lực” trước cơn sóng xe điện Trung Quốc?Châu Âu “bất lực” trước cơn sóng xe điện Trung Quốc?
Ác mộng lạm phát tại châu Âu: Khi thực phẩm sắp hết hạn lên ngôiÁc mộng lạm phát tại châu Âu: Khi thực phẩm sắp hết hạn lên ngôi

  • bidv-14-4
  • thp
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Hà Nội - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Đà Nẵng - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Miền Tây - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Tây Nguyên - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,800 ▲400K 152,800 ▲400K
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
Miếng SJC Nghệ An 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 15,220 ▲80K 15,420 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,000 ▲20K 15,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,000 ▲20K 15,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,000 ▲20K 15,300 ▲20K
NL 99.99 14,180 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,180 ▲20K
Trang sức 99.9 14,590 ▲20K 15,190 ▲20K
Trang sức 99.99 14,600 ▲20K 15,200 ▲20K
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,522 ▲8K 15,422 ▲80K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,522 ▲8K 15,423 ▲80K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,494 ▲1345K 1,519 ▲4K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,494 ▲1345K 152 ▼1364K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,479 ▲4K 1,509 ▲4K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,906 ▲130455K 149,406 ▲134505K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,836 ▲300K 113,336 ▲300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95,272 ▲95177K 102,772 ▲101747K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,708 ▲244K 92,208 ▲244K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,633 ▲79829K 88,133 ▲87254K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,582 ▲167K 63,082 ▲167K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,522 ▲8K 1,542 ▲8K
Cập nhật: 28/11/2025 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16663 16932 17511
CAD 18243 18519 19132
CHF 32045 32427 33083
CNY 0 3470 3830
EUR 29872 30145 31178
GBP 34011 34401 35343
HKD 0 3255 3457
JPY 161 166 172
KRW 0 17 18
NZD 0 14744 15325
SGD 19766 20048 20571
THB 735 798 851
USD (1,2) 26092 0 0
USD (5,10,20) 26134 0 0
USD (50,100) 26162 26182 26412
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,192 26,192 26,412
USD(1-2-5) 25,145 - -
USD(10-20) 25,145 - -
EUR 30,185 30,209 31,355
JPY 165.66 165.96 172.91
GBP 34,529 34,622 35,427
AUD 17,006 17,067 17,510
CAD 18,505 18,564 19,089
CHF 32,471 32,572 33,246
SGD 19,969 20,031 20,651
CNY - 3,678 3,776
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.67 17.38 18.66
THB 783.18 792.85 843.64
NZD 14,822 14,960 15,310
SEK - 2,744 2,824
DKK - 4,037 4,154
NOK - 2,558 2,633
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,986.75 - 6,716.63
TWD 762.34 - 917.84
SAR - 6,932.14 7,256.6
KWD - 83,852 88,668
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,190 26,192 26,412
EUR 30,001 30,121 31,290
GBP 34,287 34,425 35,438
HKD 3,322 3,335 3,446
CHF 32,193 32,322 33,254
JPY 164.74 165.40 172.54
AUD 16,910 16,978 17,536
SGD 19,989 20,069 20,637
THB 797 800 836
CAD 18,460 18,534 19,093
NZD 14,856 15,385
KRW 17.28 18.90
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26050 26050 26412
AUD 16844 16944 17875
CAD 18417 18517 19537
CHF 32323 32353 33951
CNY 0 3688.2 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30077 30107 31840
GBP 34323 34373 36147
HKD 0 3390 0
JPY 164.99 165.49 180
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14851 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19935 20065 20801
THB 0 763.5 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15220000 15220000 15420000
SBJ 13000000 13000000 15420000
Cập nhật: 28/11/2025 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,202 26,252 26,412
USD20 26,202 26,252 26,412
USD1 23,898 26,252 26,412
AUD 16,931 17,031 18,141
EUR 30,255 30,255 31,370
CAD 18,389 18,489 19,801
SGD 20,027 20,177 20,736
JPY 165.55 167.05 171
GBP 34,485 34,635 35,411
XAU 15,138,000 0 15,342,000
CNY 0 3,573 0
THB 0 799 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/11/2025 15:45