Cơ chế vận hành của Trung tâm giao dịch khí đốt TTF Hà Lan (Kỳ III)

07:00 | 16/08/2024

16,186 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chức năng của TTF phản ánh sự cạnh tranh trên thị trường bán buôn khí đốt nói chung. Một số lý do được đề cập ở trên về việc TTF không hoạt động như một thị trường chính thức không phải do bản thân TTF mà là do các vấn đề lân cận liên quan đến thị trường bán buôn khí đốt. Tuy nhiên, điều này không làm mất đi thực tế là hoạt động của TTF phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề mang tính cấp bách được đề cập ở đây.

Trước hết, NMa/DTe đã nhiều lần thu hút sự chú ý đến hầu hết các vấn đề được đề cập ở đây kể từ năm 2002 song bản thân thị trường có rất ít tiến triển. Một số giải pháp đòi hỏi sự chuẩn bị lâu dài vì cần phải đầu tư vật chất. Tuy nhiên, việc thiếu minh bạch và các vấn đề liên quan đến các quy định (chi tiết) đã làm chậm sự phát triển của TTF là điều không cần thiết. Chính xác là ở những nơi không cần đầu tư, hành động nhanh chóng là có thể và cần thiết để đem lại cho các bên niềm tin rằng cạnh tranh sẽ được cải thiện với tốc độ vừa đủ.

Cơ chế vận hành của Trung tâm giao dịch khí đốt TTF Hà Lan (Kỳ III)

Đối với thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp trong nước, điều đặc biệt quan trọng là việc cung cấp khí đốt nhiệt trị thấp thông qua TTF vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Sự bế tắc liên quan đến việc liệu và những điều kiện nào có thể cung cấp khí đốt nhiệt trị thấp cho TTF đã kéo dài trong nhiều năm và hiện tại vẫn chưa đem lại kết quả nào bởi do thiếu sự cạnh tranh về giá cả trên thị trường trong việc cung cấp khí đốt cho người tiêu dùng nhỏ. Trước mối quan hệ thị trường và lợi ích đối lập nhau, các bên tham gia thị trường sẽ không tự mình giải quyết những vấn đề này. Do đó, các biện pháp của chính phủ trung ương trong lĩnh vực này là cần thiết.

Việc giải quyết các vấn đề có thể làm chậm trễ việc thực hiện tham vọng tạo ra “vòng xoay khí đốt” có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh nguồn cung và cạnh tranh trên thị trường khí đốt quốc gia, đồng thời xác định vị thế của TTF so với các thị trường khác ở Tây Bắc Âu và châu lục. Để TTF trở thành Trung tâm thương mại quốc tế, sự phát triển của nó phải được đẩy nhanh hơn nữa. “Vòng xoay khí đốt” chỉ yêu cầu các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và dòng khí đốt (quốc tế) bởi vì những biện pháp này sẽ cho phép các bên trên thị trường vận hành “vòng xoay khí đốt” với ít quy định nhất.

Hiện tất cả các bước cần thiết để thúc đẩy hoạt động của TTF như một "vòng xoay khí đốt" có nhiệt trị cao và tạo khả năng cạnh tranh giữa các nhà cung cấp với người dùng cuối có nhiệt trị thấp. Một số bước đi này đã được thực hiện chuẩn bị bởi các bên tham gia thị trường hoặc Công ty GTS, trong khi những dự án khác vẫn còn ở giai đoạn sơ khai hoặc chưa bắt đầu và cần có hành động từ chính phủ trung ương.

Để cho phép người tiêu dùng cuối trong nước thực sự được hưởng lợi từ sự cạnh tranh trên thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp trong những hạn chế phát sinh từ vai trò đáng kể của mỏ khí đốt Groningen trong việc cung cấp khí đốt và tính linh hoạt, thì cần nhiều hơn một thị trường khí đốt có nhiệt trị cao hoạt động tốt. Sự kết hợp giữa thị trường khí đốt nhiệt trị cao với thị trường khí đốt nhiệt trị thấp, thông qua chuyển đổi chất lượng, phải cần được cải thiện cũng như hoạt động của thị trường khí đốt nhiệt độ thấp..

Chuyển đổi chất lượng

Bản chất cơ bản của vấn đề: Trước khi chia tách Công ty Gasunie thành các công ty hiện tại là Gasunie N.V. và GasTerra, sự cân bằng chuyển đổi được giám sát bằng sự kết hợp giữa chuyển đổi vật chất trong các kho trạm chuyển đổi và sự liên kết sản xuất từ ​​mỏ khí Groningen và mỏ khí đốt nhỏ khác là các mỏ có nhu cầu về khí đốt với chất lượng khác nhau. Về vấn đề này, khí đốt nhiệt trị thấp đạt “chất lượng xuất khẩu” luôn phải được chuyển đổi vật chất tại các kho trạm chuyển đổi song nhu cầu trong nước về khí đốt nhiệt trị thấp có thể được đáp ứng chủ yếu từ mỏ khí Groningen mà không cần chuyển đổi quy mô lớn.

Do vậy, sự chia tách của Công ty Gasunie đã giúp thay đổi tình hình này. Về nguyên tắc, số lượng và chất lượng khí đốt mà các bên tham gia thị trường kỳ vọng cung cấp vào mạng lưới đường ống (từ sản xuất và nhập khẩu) và bơm rút khỏi mạng lưới đường ống (để xuất khẩu và tiêu dùng nội địa) đều được chuyển qua cho Công ty GTS, sau đó, Công ty GTS sử dụng các kho trạm chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi chất lượng song không còn ảnh hưởng (trực tiếp) đến việc sản xuất khí từ mỏ khí Groningen và các mỏ khí đốt nhỏ lẻ khác. Để quản lý số dư chuyển đổi, Công ty GTS đã giới thiệu một hệ thống phân bổ yêu cầu khả năng chuyển đổi phải được dành riêng cho Công ty GTS, theo đó, năng lực chuyển đổi được phân bổ trên cơ sở “ai đến trước thì được phục vụ trước” (firstcome-first-served). Hiện Công ty GTS đã chỉ ra việc công suất (vật chất) sẵn có để chuyển đổi chất lượng đã được cài đặt đầy đủ trong những năm tới.

Hiện lượng khí đốt mà GTS có thể chuyển đổi vật chất trong các kho trạm chuyển đổi phụ thuộc vào nguồn cung khí đốt có nhiệt trị cao, nguồn cung khí đốt có nhiệt trị thấp và công suất nitrogen mà Công ty GTS dùng để “pha loãng” khí đốt tự nhiên. Về vấn đề này, danh mục đầu tư của Công ty GasTerra lớn đến mức nó quyết định phần lớn cả nhu cầu lẫn nguồn cung chuyển đổi vật chất. Trường hợp nếu mỏ khí Groningen cung cấp nhiều khí đốt hơn thì nhu cầu chuyển đổi sẽ giảm; nếu mỏ khí Groningen giảm sản lượng thì nhu cầu chuyển đổi lại sẽ tăng lên và nguồn cung chuyển đổi sẽ giảm.

Do đó, kể từ khi chia tách Công ty Gasunie, Công ty GTS với tư cách là TSO không còn sử dụng tổ hợp sản xuất của Công ty GasTerra như một phương tiện đáp ứng nhu cầu chuyển đổi. Thay vào đó, sự kết hợp này đã trở thành một yếu tố bên ngoài quyết định khả năng chuyển đổi có sẵn cho bên thứ ba ở một mức độ đáng kể. Hiện không thấy có chỉ dấu nào cho thấy khả năng vật chất của mỏ khí Groningen đã suy giảm đáng kể kể từ khi Công ty Gasunie bị chia tách. Do đó, sự thiếu hụt chuyển đổi chất lượng hiện nay là sự thiếu hụt theo hợp đồng chứ không phải là sự thiếu hụt về mặt vật chất. Trong trung hạn, khi năng lực sản xuất của mỏ khí Groningen sụt giảm, tình trạng thiếu hụt năng lực chuyển đổi chất lượng sẽ phát sinh.

Năng lực và sự phân bổ: Hầu hết các chủ hàng đều kỳ vọng việc mở rộng năng lực chuyển đổi chất lượng. Ngoài ra, hầu hết các bên tham gia thị trường đều tuyên bố họ kỳ vọng hướng tới một tình huống không còn bắt buộc phải dự trữ hàng hóa trước khả năng chuyển đổi chất lượng.

Công ty GTS chịu trách nhiệm đảm bảo có đủ chuyển đổi chất lượng và hệ thống đặt chỗ chỉ có thể bị hủy bỏ sau khi các khoản đầu tư mà GTS dự định đã được thực hiện. Tuy nhiên, NMa/DTe thì lại cho rằng tuyên bố này chỉ ra việc GTS đánh giá thấp cơ hội đem lại cho thị trường nhiều chuyển đổi chất lượng hơn, điều này dẫn đến sự chậm trễ không cần thiết và không mong muốn. Vì đây là vấn đề hợp đồng trong ngắn hạn nên vấn đề này phải được giải quyết bằng hợp đồng. GTS sẽ phải ký kết hợp đồng với GasTerra để đảm bảo giải quyết tình trạng thiếu hụt chuyển đổi chất lượng thông qua danh mục đầu tư của GasTerra. Ngoài ra, danh mục đầu tư của các công ty khác, chẳng hạn như các công ty điện lực lớn, cũng có thể cung cấp dịch vụ chuyển đổi hợp đồng GTS ở mức độ thấp hơn. Bằng cách đi theo đường hướng hợp đồng này, GTS có thể quản lý số dư chuyển đổi “sau hậu trường” (behind the scenes) và sự hợp tác của GasTerra trong giải pháp hợp đồng này là rất quan trọng. Nếu GTS và GasTerra không thể đạt được thỏa thuận một cách độc lập thì phải xem xét việc áp đặt nghĩa vụ đối với các bên này. Để đạt được điều này, biện pháp này cần được đưa vào luật pháp và/hoặc quy định của nhà nước. Khi nguồn cung khí đốt ở CH Hà Lan chuyển từ mỏ khí đốt Groningen sang phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu (khí đốt có nhiệt trị cao), nhu cầu vật chất để chuyển đổi chất lượng cao hơn sẽ tăng lên. Về nguyên tắc, việc GTS đang có kế hoạch đảm bảo khả năng chuyển đổi chất lượng (một phần) tăng lên cùng với khả năng nhập khẩu khí đốt là khá hợp lý.

Phân bổ chi phí: Hiện có sự khác biệt về quan điểm liên quan đến cách thức chuyển giao chi phí chuyển đổi chất lượng trong một hệ thống không có công suất dự trữ. Chẳng hạn như một chủ hàng kỳ vọng việc “xã hội hóa toàn bộ công suất chuyển đổi chất lượng” là biện pháp cần thiết. Tuy nhiên, một chủ hàng khác thì lại kỳ vọng nên bắt đầu với hệ thống “trả tiền khi sử dụng” thay vì biến việc chuyển đổi chất lượng thành một dịch vụ hệ thống. Một chủ hàng khác thì lại cảnh báo về khả năng giá cước vận chuyển cao hơn, yêu cầu nghiên cứu về chi phí của biện pháp đó cũng như cách thức mà những chi phí này sẽ được chủ hàng thu hồi. Ngoài ra, chủ hàng khác thì còn đề cập đến nguy cơ các bên có thể sử dụng hệ thống chuyển đổi chất lượng xã hội hóa (socialised quality) để chuyển đổi khí đốt có nhiệt trị cao để xuất khẩu sang nước khác.

Thứ nhất, tính sẵn có của chuyển đổi chất lượng là quan trọng khi mà cuộc thảo luận, khảo sát về phân bổ chi phí chỉ là thứ yếu. Cuối cùng, việc phân bổ chi phí là sự lựa chọn giữa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (polluter pays) hoặc “sân chơi bình đẳng” (level playing field). Nếu một sân chơi bình đẳng được lựa chọn thì chi phí được xã hội hóa bằng cách phân bổ chi phí cho tất cả các điểm thoát hoặc tất cả các điểm thoát có nhiệt trị thấp, khi đó, các bên tham gia TTF mà không có quyền tiếp cận trực tiếp mỏ khí Groningen thì sẽ không gặp bất lợi hơn so với GasTerra. Tuy nhiên, GasTerra sẽ có nghĩa vụ thanh toán cho việc chuyển đổi mà bản thân GasTerra không yêu cầu. Mặt khác, trong một thỏa thuận mà người dùng trả tiền, phí dịch vụ được phân bổ công bằng và người dùng có động cơ sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả. Tuy nhiên, các chủ hàng khác sẽ gặp bất lợi về mặt tự động hơn so với GasTerra bởi vì họ yêu cầu chuyển đổi tương đối nhiều hơn so với GasTerra. Việc phân bổ chi phí, sau khi từ bỏ hệ thống đặt trước, sẽ được quy định trong hệ thống Mã khí đốt tự nhiên (Gas Codes).

Tính linh hoạt: Việc tiếp cận các cơ sở lưu trữ là rất quan trọng cho sự phát triển của thị trường khí đốt nhiệt trị thấp (và nhiệt trị cao). Hiện tại, chỉ có một vài phần trăm công suất sẵn có của các cơ sở lưu trữ hiện có được cung cấp ra thị trường. Ngoài ra, vì lý do lịch sử, phần lớn các địa điểm phù hợp để chuyển đổi sang lưu trữ theo mùa trong tương lai đều thuộc giấy phép sản xuất khí đốt hiện có của NAM . Đây là một trở ngại đối với việc đầu tư vào kho chứa khí đốt của những người mới tham gia, những người cần tăng cường cạnh tranh trên thị trường linh hoạt.

Để cung cấp các mỏ khí đốt bỏ hoang phù hợp cho việc lưu trữ khí đốt cho các bên thứ ba và bằng cách đó, cải thiện cơ hội đầu tư, việc sửa đổi đạo luật Khai thác mỏ [Mijnbouwwet] là điều rất cần thiết.

Chất lượng chuyển đổi và đầu tư

Ngay cả khi không còn nhu cầu dự trữ chuyển đổi chất lượng, quyền tự do lựa chọn đầy đủ của các nhà cung cấp khí đốt có nhiệt trị thấp cho người tiêu dùng nhỏ sẽ không tự động xuất hiện và trong thời gian ngắn, điều này chỉ giải quyết được tình trạng thiếu chuyển đổi chất lượng; việc tiếp cận khí đốt và tính linh hoạt (theo mùa) tiếp tục là cần thiết với các biện pháp nêu trên nhằm cải thiện môi trường đầu tư, sau đó sẽ mất nhiều năm để hiện thực hóa những khoản đầu tư này.

Dựa trên lý do trên, mặc dù việc chuyển đổi chất lượng và cải thiện môi trường đầu tư để linh hoạt có thể góp phần quan trọng vào việc phát triển cạnh tranh trên thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp song sẽ không thực tế khi cho rằng sự phụ thuộc vào mỏ khí Groningen sẽ giảm đáng kể trong những năm tới đây. Nếu nghiên cứu cho thấy GasTerra có vị trí thống trị (tiếp tục một phần) trên thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp và/hoặc tính linh hoạt, thì các biện pháp bổ sung sẽ là cần thiết để thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp cho người tiêu dùng nhỏ.

Khí đốt có nhiệt trị thấp và tính linh hoạt thông qua TTF

Về mặt vật chất, CH Hà Lan có đủ khí đốt có nhiệt trị thấp và tính linh hoạt. Tuy nhiên, do nguồn này được cung cấp trực tiếp “phía sau cổng thành” và không bơm chảy qua TTF nên khí đốt không thể giao dịch và không thể được triển khai tự do, đồng thời cơ hội để các nhà cung cấp khác biệt với nhau do đó cũng sẽ bị hạn chế.

Hầu hết các chủ hàng đều ủng hộ kế hoạch đảm bảo có nhiều khí đốt hơn từ mỏ khí Groningen bơm chảy qua TTF kể từ ngày 1/1/2008, tất cả khí đốt và tính linh hoạt phải được cung cấp trên TTF. Mặc dù các chủ hàng khác lại bày tỏ kỳ vọng mạnh mẽ về việc cung cấp khí đốt có nhiệt trị thấp trên TTF và một biện pháp như thế này được một số bên khác ưu tiên thực hiện. Đồng thời, một số chủ hàng khác lại không muốn bị buộc phải tự mình giao dịch trên thị trường bán buôn với tất cả các nghĩa vụ liên quan. GasTerra tuyên bố điều quan trọng là phải đảm bảo nó sẽ không chiếm ưu thế trên TTF. GasTerra cũng cảnh báo nếu cung cấp quá nhiều khí đốt trên TTF thì lượng khí đốt này có thể được bơm chảy sang các nước khác song một số ít chủ hàng thì lại tuyên bố họ muốn cung cấp khí đốt có nhiệt trị thấp trên TTF song không có nhu cầu về việc này.

Các hợp đồng tiêu chuẩn có nhiệt trị thấp (hàng năm) hiện được cung cấp trên TTF mà không có sự linh hoạt. Do nhu cầu đáng kể về tính linh hoạt theo mùa trên thị trường khí đốt có nhiệt trị thấp, những hợp đồng như vậy không phải là sự thay thế cho các nhà cung cấp cho người tiêu dùng nhỏ. Do đó, thực tế là không có nhu cầu về khí đốt “ổn định” (flat) theo hợp đồng năm là điều không có gì đáng ngạc nhiên, theo NMa/DTe. Tính linh hoạt theo mùa đối với khí có nhiệt trị thấp hiện không được cung cấp trên TTF; bên duy nhất có thể cung cấp số lượng đáng kể này là GasTerra.

Lựa chọn cho người mua: Để cải thiện chức năng của thị trường bán buôn khí đốt có nhiệt trị thấp và sự cạnh tranh giữa nhà cung cấp với người tiêu dùng, điều quan trọng là các chủ hàng/nhà cung cấp có cơ hội xây dựng danh mục đầu tư bao gồm số lượng khí đốt trên TTF có ý nghĩa và khí đốt nhập khẩu được chuyển đổi. Họ cũng phải có khả năng trang trải các rủi ro và chi phí khi nhu cầu đạt đỉnh và cân đối bằng các hợp đồng linh hoạt. Để đạt được điều này, điều cần thiết là khí từ mỏ khí Groningen và tính linh hoạt phải được cung cấp đúng số lượng và vào đúng thời điểm trên TTF.

Link nguồn:

https://www.acm.nl/sites/default/files/old_download/documenten/nma/NMa_TTF_rapport_DEF.pdf

Tuấn Hùng

ACM

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,000 ▲1500K 120,000 ▲2000K
AVPL/SJC HCM 117,000 ▲1500K 120,000 ▲2000K
AVPL/SJC ĐN 117,000 ▲1500K 120,000 ▲2000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,480 ▲50K 11,760 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 11,470 ▲50K 11,750 ▲100K
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 117.000
TPHCM - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 114.000 117.000
Hà Nội - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 117.000
Đà Nẵng - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 114.000 117.000
Miền Tây - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.000 ▲1500K 120.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 115.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 115.170
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 114.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.700 87.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.560 68.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.960 48.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 106.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.460 70.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 69.100 75.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.580 79.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.200 43.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.980 38.430
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,320 ▲100K 11,840 ▲100K
Trang sức 99.9 11,310 ▲100K 11,830 ▲100K
NL 99.99 11,320 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,320 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,550 ▲100K 11,850 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,550 ▲100K 11,850 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,550 ▲100K 11,850 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,700 ▲150K 12,000 ▲200K
Miếng SJC Nghệ An 11,700 ▲150K 12,000 ▲200K
Miếng SJC Hà Nội 11,700 ▲150K 12,000 ▲200K
Cập nhật: 18/04/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15982 16248 16834
CAD 18172 18448 19065
CHF 31007 31385 32052
CNY 0 3358 3600
EUR 28847 29116 30149
GBP 33593 33981 34932
HKD 0 3209 3412
JPY 175 179 185
KRW 0 0 18
NZD 0 15055 15640
SGD 19216 19496 20015
THB 690 754 807
USD (1,2) 25665 0 0
USD (5,10,20) 25703 0 0
USD (50,100) 25731 25765 26110
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,745 25,745 26,105
USD(1-2-5) 24,715 - -
USD(10-20) 24,715 - -
GBP 33,940 34,032 34,951
HKD 3,280 3,290 3,390
CHF 31,214 31,311 32,180
JPY 178.37 178.69 186.7
THB 740.08 749.22 802.1
AUD 16,280 16,339 16,786
CAD 18,442 18,501 19,004
SGD 19,412 19,472 20,096
SEK - 2,647 2,741
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,882 4,016
NOK - 2,429 2,518
CNY - 3,515 3,610
RUB - - -
NZD 15,030 15,170 15,619
KRW 16.89 17.62 18.94
EUR 29,021 29,044 30,294
TWD 718.96 - 869.86
MYR 5,496.84 - 6,200.81
SAR - 6,793.19 7,150.88
KWD - 82,309 87,520
XAU - - -
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25746 25746 26106
AUD 16188 16288 16859
CAD 18357 18457 19016
CHF 31279 31309 32210
CNY 0 3518.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29033 29133 30006
GBP 33888 33938 35056
HKD 0 3320 0
JPY 179.14 179.64 186.18
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15192 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19373 19503 20237
THB 0 721.5 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 18/04/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,750 25,800 26,120
USD20 25,750 25,800 26,120
USD1 25,750 25,800 26,120
AUD 16,203 16,353 17,432
EUR 29,171 29,321 30,507
CAD 18,304 18,404 19,724
SGD 19,446 19,596 20,473
JPY 179.03 180.53 185.2
GBP 33,983 34,133 35,030
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,402 0
THB 0 756 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 18/04/2025 16:00