Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng:

'Chính phủ thân thiện, doanh nghiệp mới yên tâm bỏ tiền kinh doanh'

18:29 | 28/06/2016

314 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư cũng khẳng định, Chính phủ mong muốn tiếp tục lắng nghe "còn cần làm gì thêm nữa" để tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.

Thông điệp này được Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh tại hội thảo Đối thoại chính sách đầu tư 2016 do Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) phối hợp với Công ty KPMG Việt Nam đồng tổ chức ngày 28/6.

Dành gần trọn cả buổi sáng tới tham dự và lắng nghe những kiến nghị từ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã đưa ra nhiều thông điệp về cải cách, đổi mới của Chính phủ.

Điểm lại những con số về phát triển kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2016, Bộ trưởng nhìn nhận, Việt Nam đã duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng chưa thật vững chắc. Tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn so với cùng kỳ năm 2015, nên để đạt được mục tiêu GDP tăng 6,7% đòi hỏi sự nỗ lực lớn từ phía Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp.

chinh phu than thien doanh nghiep moi yen tam bo tien kinh doanh
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, Chính phủ muốn lắng nghe để biết "làm gì thêm nữa" cho doanh nghiệp.

Vừa qua Chính phủ đã ban hành 2 nghị quyết quan trọng là Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 với mục đích cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư..., nhưng Chính phủ vẫn mong muốn lắng nghe "cần làm gì thêm nữa" để doanh nghiệp phát triển.Đặt trong bối cảnh năm 2016 có nhiều thay đổi, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay, bộ máy Chính phủ mới được kiện toàn đã và đang chỉ đạo mạnh mẽ với mục tiêu tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp phát triển, cũng như sẵn sàng đối mặt với những khó khăn của nền kinh tế.

Trước đây giữa chính quyền và doanh nghiệp vẫn còn nhiều khoảng cách, hay tạo ra rào cản, nhũng nhiễu doanh nghiệp. Tới đây, phải đổi mới tư duy theo hướng Nhà nước kiến tạo, hệ thống pháp luật cũng cần thân thiện, cởi mở hơn.

"Chúng ta phải thay đổi theo hướng từ quản lý sang phục vụ, doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh nhưng Nhà nước sẽ giám sát chặt chẽ 'đầu ra', chứ không buông lỏng quản lý. Chính phủ phải thân thiện, doanh nghiệp mới yên tâm bỏ tiền sản xuất, kinh doanh", Bộ trưởng nhấn mạnh.

Đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ, GS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội đầu tư nước ngoài nhìn nhận, cuộc chiến đấu với giấy phép con của Chính phủ tại các bộ, ngành khi lược bỏ các điều kiện kinh doanh quy định trong Thông tư và nâng lên thành Nghị định là "cuộc chiến đấu tranh từ bỏ lợi ích nhóm".

"Trong hai tuần vừa rồi, đây là cuộc đấu tranh rất thời sự, là minh chứng cho cuộc đấu tranh không cân sức giữa đổi mới và chống lại bảo thủ để thực hiện mục tiêu Nhà nước kiến tạo, tạo hành lang thông thoáng và thúc đẩy đổi mới và phát triển" - GS Mại đánh giá.

Cũng liên quan tới việc nâng các điều kiện kinh doanh từ Thông tư lên Nghị định, Bộ trưởng Dũng khẳng định, sẽ không có việc nâng cấp cơ học.

“Hơn 3.000 giấy phép con đã được loại bỏ trong tổng số gần 6.000 giấy phép con. Tinh thần rà soát là rất khẩn trương, nhưng Chính phủ yêu cầu không phải là tiến độ, mà phải đảm bảo chất lượng, không nâng cấp một cách 'cơ học' Thông tư lên Nghị định, mà phải sửa đổi theo tinh thần những gì không còn phù hợp, cần thiết thì phải loại bỏ. Những gì không minh bạch, cụ thể thì phải cụ thể hoá ra”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, đồng thời cũng thừa nhận, chuyện các bộ, ngành đã triển khai chậm, nên vừa rồi có hiện tượng "dồn toa", nhưng quá trình rà soát không phải tới 1/7 là sẽ dừng mà vẫn triển khai tiếp.

"Đợt rà soát vừa rồi là cuộc cách mạng lớn của Chính phủ. Sau thời điểm 1/7 các nghị định này được ban hành và có hiệu lực nhưng quá trình rà soát vẫn tiếp tục với tinh thần phục vụ doanh nghiệp", Bộ trưởng chia sẻ.

Với tất cả những nền tảng cơ bản mà Chính phủ đang tích cực tạo ra, để tận dụng cơ hội thì cần phải có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp.

"Một con thuyền nhỏ đơn độc ra khơi gặp nhiều rủi ro, sóng lớn. Nhưng nhiều con thuyền liên kết lại với nhau sẽ ra được biển lớn. Thông điệp tôi muốn nhấn mạnh là sự liên kết. Cạnh tranh không phải là sự thôn tính, tiêu diệt nhau, mà cạnh tranh là để lớn mạnh hơn", ông Dũng nhấn mạnh.

Dẫn lại mục tiêu xây dựng một đất nước kiến tạo, dân chủ, người đứng đầu ngành kế hoạch đề cập 3 trụ cột mà doanh nghiệp cần chú trọng. Trước tiên, tăng năng suất lao động là điểm mấu chốt để Việt Nam không bị vướng vào bẫy thu nhập trung bình. Cùng với đó là tạo công bằng xã hội để thu hẹp khoảng cách và xây dựng nhà nước có năng lực, trách nhiệm giải trình.

"Thế giới không ngừng thay đổi. Với nhiều người chơi mới, luật chơi mới, tôi rất mong các doanh nghiệp định vị lại mình đang nằm ở đâu trong cuộc chơi này, tận dụng những cơ hội tốt nhất. Nếu không chuẩn bị tốt với tâm thế sẵn sàng thì chúng ta sẽ chịu nhiều thua thiệt", Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư nêu thông điệp.

Nguyễn Hoài

VNE

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 13:00