Cảnh báo mối nguy hại từ thuốc bảo vệ thực vật

09:36 | 10/09/2012

2,782 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Để sản xuất nông nghiệp đạt năng suất cao, một trong những yếu tố quan trọng là thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), thuốc thú y. Bên cạnh những mặt tích cực do những sản phẩm này mang lại thì việc sản xuất và sử dụng chúng không đúng cách sẽ làm nảy sinh nhiều hệ lụy với môi trường sống và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Hiện nay, cả nước có 93 nhà máy, cơ sở sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói và 28.750 đại lý, điểm bán lẻ thuốc BVTV, hơn 100 cơ sở sản xuất, kinh doanh và 2.250 đại lý, điểm bán lẻ thuốc thú y. Hầu hết các cơ sở sản xuất thuốc BVTV và thuốc thú y nằm trong các khu công nghiệp (chiếm khoảng 2/3), còn lại nằm rải rác bên ngoài, xen kẽ trong khu dân cư.

Quá trình gia công, sang chai, đóng gói thuốc BVTV, thuốc thú y mặc dù phát sinh lượng nước thải không lớn nhưng có chứa dư lượng các chất khí thải độc hại gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người: Phenol, Pb (chì), As (Asen)…; chất thải rắn nguy hại (vỏ chai, lọ, bao bì thuốc BVTV, thuốc thú y); mùi hóa chất… Do đó, nếu không quan tâm thu gom, quản lý theo đúng quy định sẽ gây ô nhiễm môi trường.

Ngoài ra, các cơ sở buôn bán thuốc BVTV, thuốc thú y nằm xen kẽ trong khu dân cư phần lớn không đảm bảo điều kiện kinh doanh, buôn bán: không có chứng chỉ hành nghề, không đáp ứng yêu cầu về kho bãi, cửa hàng, không có cam kết bảo vệ môi trường, lưu giữ bảo quản không đúng quy định gây phát sinh mùi ra xung quanh.

Nhiều cơ sở kinh doanh thuốc BVTV bảo quản không đúng cách

Trong lưu giữ thuốc BVTV, cả nước có khoảng 260 kho thuốc BVTV, chủ yếu lưu giữ thuốc BVTV đã quá hạn cần phải tiêu hủy. Số lượng cần tiêu hủy là hơn 69.000 kg và 43.000 lít thuốc BVTV và 69.640 kg vỏ chai bao bì cần tiêu hủy. Số lượng khối thuốc BVTV này nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh, thành phố, trong tình trạng bao bì hư hỏng, không nhãn mác, lưu chứa trong các kho không đảm bảo an toàn, xuống cấp, nguy cơ rò rỉ, thấm lậu gây ô nhiễm môi trường là rất lớn.

Theo kết quả khảo sát của Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm về Môi trường tại 14 cơ sở kinh doanh thuốc BVTV, thuốc thú y lớn trên cả nước cho thấy: 42,6% cơ sở không có hệ thống xử lý khí thải hoặc có nhưng không triệt để làm phát tán mùi ra ngoài; 7% cơ sở không có hệ thống xử lý nước thải; 35,7% cơ sở không đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại hoặc không điều chỉnh đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại theo quy định; 28,4% cơ sở không phân loại chất thải nguy hại hoặc không đăng ký, báo cáo việc lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại quá thời hạn xử lý; nhiều cơ sở không có cam kết bảo vệ môi trường…

Hiện nay, khi khoa học nông nghiệp, công nghiệp hiện đại phát triển thì các loại thuốc BVTV, thuốc thú y ngày càng đa dạng, việc sử dụng các loại thuốc BVTV, thuốc thú y cũng gia tăng nhanh chóng. Việc tăng liều lượng thuốc, tăng số lần phun xịt, dùng thuốc BVTV, thuốc thú y không theo hướng dẫn đã dẫn đến những hệ lụy về môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người.

Đa số các loại thuốc BVTV có tính độc cao. Nếu không sử dụng đúng cách sẽ để lại tồn dư thuốc trong nông sản, thực phẩm. Qua kiểm tra, các cơ quan chức năng phát hiện có 30 – 60% mẫu rau tồn dư hóa chất BVTV vượt quá ngưỡng cho phép. Đó là nguyên nhân của không ít các vụ ngộ độc thực phẩm cấp tính và mãn tính.

Ngoài ra, việc không tuân thủ quy trình khi sử dụng thuốc BVTV có thể làm cho nguồn nước, nguồn không khí bị ô nhiễm, gây hiện tượng kháng thuốc, biến đổi gen ở cây trồng, diệt luôn cả những động, thực vật có lợi và làm ô nhiễm môi trường đất, nguồn nước…

Do nhận thức hạn chế không ít nông dân sử dụng thuốc BVTV một cách tràn lan

Theo số liệu của Cục BVTV - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có từ 35 – 60% nông dân chỉ thực hiện cách ly sử dụng thuốc BVTV từ 1 – 3 ngày trước thu hoạch, 25 – 43% cách ly từ 4 - 6 ngày, trong khi đó phần lớn thuốc BVTV phải thực hiện thời gian cách ly trước thu hoạch từ 7 – 14 ngày, hoặc lâu hơn. Bên cạnh đó, một bộ nông dân do nhận thức còn hạn chế, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao nên vẫn nghĩ vỏ bao thuốc BVTV, thuốc thú y là chất thải thông thường nên bỏ bừa bãi sau khi sử dụng, gây nguy hại đến môi trường.

Nếu sử dụng thuốc BVTV không đúng cách sẽ là mối nguy hại rất lớn cho môi trường và sức khỏe cộng đồng. Do đó, công tác bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV, thuốc thú y là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm và giải quyết một cách hài hòa để đảm bảo phát triển kinh tế nông nghiệp và bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân.

Mai Phương