Bất lợi của Việt Nam trong thương chiến Mỹ - Trung

07:33 | 31/08/2019

375 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dữ liệu thực tế xuất nhập khẩu sang Mỹ, Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm đang quay lưng với suy đoán 'Việt Nam hưởng lợi từ thương chiến'.

Tại diễn đàn về thuận lợi khó khăn trong thực thi CPTPP ngày 30/8, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO (Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam, VCCI) cho rằng đã có nhiều suy đoán chưa đúng về sự dịch chuyển dòng vốn Trung Quốc sang Việt Nam. Việt Nam cũng không hưởng lợi từ xung đột thương mại này, như nhiều dự báo trước đó. Bằng chứng bà Trang đưa ra là số liệu xuất nhập khẩu Việt Nam sang 2 thị trường này trong nửa đầu năm nay.

Số liệu của cơ quan hải quan cho thấy, Mỹ tiếp tục vị trí dẫn đầu trong số thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 33 tỷ USD đến hết tháng 7 và tăng 27% so với năm ngoái. Trong khi đó, Trung Quốc lại là thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam, gần 20 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ.

Theo bà Trang, Mỹ là thị trường mà Việt Nam có mức tăng trưởng cao nhất trong 6 tháng đầu năm. Lẽ thường khi xuất khẩu tăng sẽ là tin mừng, nhưng điều không vui là Việt Nam nằm trong nhóm 10 đối tác có thâm hụt thương mại với Mỹ.

"Đây không phải tin mới vì nhiều năm nay hiện tượng này đã xảy ra. Tuy nhiên, tăng trưởng nhập khẩu vào Mỹ của 9 nước còn lại đều giảm so với năm 2018, duy nhất Việt Nam tăng", bà Trang nói.

bat loi cua viet nam trong thuong chien my trung
Sản xuất máy tính bảng tại Samsung Việt Nam. Ảnh: AP

Trong số 10 đối tác thâm hụt thương mại này, hiện duy nhất Việt Nam và Malaysia chưa bị Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt hoặc đối phó. Nhưng điều đáng lo ngại, là trong khi Malaysia đã giảm tốc tăng trưởng nhập khẩu thì tỷ trọng xuất hàng Việt sang Mỹ lại tăng mạnh. "Đó là nguy cơ tiềm tàng. Không cần phải đợi đến dài hạn nền kinh tế Việt Nam mới gặp bất lợi như nhiều dự đoán trước đó. Thực tế đang cho thấy những ảnh hưởng tiêu cực đã xảy ra", bà lưu ý.

Ở chiều ngược lại, mối quan hệ thương mại với Trung Quốc, 6 tháng đầu năm nay tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng 0,3%, nhưng nếu so với mức gần 22% cùng kỳ năm 2018 thì đây lại là sự giảm tốc lớn. Sụt giảm xuất khẩu sang Trung Quốc diễn ra ở hầu hết mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thuỷ sản. Nguyên nhân theo các chuyên gia xuất nhập khẩu là Trung Quốc siết chặt các điều kiện về xuất nhập khẩu.

Trong khi đó, nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam lại có dấu hiệu tăng, nhất là ở những mặt hàng mà nước này xuất khẩu mạnh qua Mỹ, như máy tính, linh kiện điện tử... tăng tới 70%. Điểm trùng hợp là cũng các mặt hàng này, tỷ trọng hàng Việt xuất sang Mỹ tăng tới 89%.

Giám đốc Trung tâm WTO cũng cho rằng, dòng dịch chuyển vốn đầu tư trong chiến tranh thương mại đang đi ngược chiều so với nhiều suy đoán trước đó. Thực tế đúng là có hiện tượng các nhà đầu tư rút vốn khỏi Trung Quốc, nhưng là những đơn vị xuất khẩu hàng Mỹ. Nhà đầu tư nước ngoài cũng đang quay trở lại với chiến lược "sản xuất ở Trung Quốc cho thị trường Trung Quốc".

"Suy đoán vốn từ Trung Quốc chuyển đi các nước mà Việt Nam là một điểm thu hút cũng có điểm khác. Số liệu của các nhà đầu tư Nhật không cho thấy điều đấy. Vốn giảm ở Trung Quốc, tăng ở thị trường khác nhưng không phải ở Việt Nam. Đến lúc tăng ở Trung Quốc, giảm ở thị trường khác thì Việt Nam giảm sâu hơn", bà nói.

Với hiện trạng đó, bà Trang cho rằng CPTPP và các FTA thế hệ mới sẽ là giải pháp "cứu cánh cho doanh nghiệp Việt Nam". CPTPP với tiêu chuẩn cao về thể chế, đòi hỏi cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư sẽ là lý do khiến doanh nghiệp ngoại chọn lựa Việt Nam thay vì buộc phải đến để né thương chiến. CPTPP hay các hiệp định tự do mà Việt Nam đã ký kết cũng tạo ra cơ hội lớn về tăng GDP, xuất khẩu tại nền kinh tế 96 triệu dân...

"Tôi nhìn nhận những hiệp định này như một trong những cứu cánh quan trọng cho Việt Nam trong việc giải quyết các khó khăn về đầu tư", bà Nguyễn Thị Thu Trang nhấn mạnh.

Trong bình diện này, ông Đoàn Duy Khương nhấn mạnh nguyên tắc công khai, minh bạch hoá thông tin của doanh nghiệp trong hội nhập. "Đây là nguyên tắc sống còn trong trong bối cảnh chiến tranh thương mại, giúp các nhà sản xuất giảm thiểu rủi ro khi xuất khẩu, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và quyền lợi người tiêu dùng", ông lưu ý.

Theo VNE

Giá xăng dầu hôm nay 31/8 đồng loạt giảm mạnh
Mỹ có thể đối phó Trung Quốc bằng chiến lược mở rộng căn cứ quân sự
Thương chiến Mỹ - Trung: Dấu hiệu cho thấy Việt Nam không hẳn đã hưởng lợi
Mỹ - Trung hạ nhiệt thương chiến
Trung Quốc muốn Mỹ không áp thêm thuế
Bất chấp đề nghị của Tổng thống Trump, vẫn có nhiều công ty Mỹ chuyển tới Trung Quốc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 23:00