Ngành dầu khí Việt Nam phát triển cùng đất nước

Bài 3: Cần động lực từ cơ chế, chính sách (Tiếp theo và hết)

13:27 | 12/12/2018

|
Những năm gần đây, tuy gặp không ít khó khăn do giá dầu ở mức thấp, sản lượng khai thác suy giảm vì các mỏ đã ở giai đoạn cuối, nhưng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vẫn là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Thế nhưng, dường như các cơ chế, chính sách đang được áp dụng cho PVN không còn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, vì thế ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của PVN, ngành dầu khí (NDK) Việt Nam và rộng hơn nữa là lợi ích, chủ quyền quốc gia.
bai 3 can dong luc tu co che chinh sach tiep theo va hetBài 2: "Phao cứu sinh" của đất nước thời kỳ đổi mới
bai 3 can dong luc tu co che chinh sach tiep theo va hetBài 1: Có nguồn gốc quân đội, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ

Những chi tiết cao su và bộ ván ghép tận dụng

Có tới các giàn khoan dầu khí mới cảm nhận được những nỗ lực vượt khó của cán bộ, người lao động NDK. Tại giàn khoan Tam Đảo 03 thuộc Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro, anh Nguyễn Hải, Giàn trưởng, cho chúng tôi biết: Vì tập đoàn đang trong giai đoạn khó khăn nên chế độ cho cán bộ, người lao động đã phải tiết giảm. Ví dụ, trước đây cứ 2 tuần/lần là có trực thăng ra để cán bộ, người lao động đổi đầu về bờ nghỉ ngơi, nhưng hiện nay phải 3 tuần/lần. Với đặc thù lao động dầu khí trên các giàn khoan căng thẳng, độc hại, nguy hiểm, vận hành 24/24 giờ, không gian chật hẹp, máy móc ù ù suốt ngày đêm... phải lao động kéo dài thêm trên giàn khoan là thêm rất nhiều vất vả, ảnh hưởng tới sức khỏe và sự an toàn của người lao động. Thế nhưng, thu nhập trung bình của kỹ sư trên giàn khoan hiện nay trung bình cũng chỉ đạt 12-20 triệu đồng/tháng, tùy theo vị trí công việc. Như vậy là thấp hơn nhiều so với lao động trong NDK của các nước ngay trong khu vực. Trong khi các vị trí công việc ở giàn khoan đều rất quan trọng, ví dụ kíp trưởng phải điều khiển cần khoan trị giá hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu USD trong thời gian 12 giờ liên tục, chỉ cần một sai sót nhỏ có thể làm gẫy hay kẹt cần khoan thì thiệt hại rất lớn.

bai 3 can dong luc tu co che chinh sach tiep theo va het
Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1 và 2 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ảnh: Hùng Sơn

Tình trạng “giật gấu vá vai” đã xuất hiện trên các giàn khoan của PVN, trong đó có giàn Tam Đảo 03. Anh Bùi Thọ Dương, Kỹ sư trưởng động lực, cho hay, để tiết kiệm chi phí, anh đã phải liên tục “sáng tạo”, chế ra các chi tiết thay thế phần bị hỏng hóc để máy vẫn chạy được, bởi chờ đề xuất để có chi tiết thay thế sẽ rất lâu. Ví như, các miếng đệm cao su của máy bơm đặc chủng, dù rất nhỏ nhưng tính ra tới hàng trăm USD/bộ. Anh Dương đã tự chế các miếng đệm cao su để duy trì cho máy móc hoạt động. Tuy nhiên, anh cũng không dám chắc làm như vậy có ảnh hưởng tới tuổi thọ của máy hay không?

Tới phòng thư giãn, xem ti vi của người lao động tại giàn Tam Đảo 03, thấy bộ ván được đóng tạm để thành ghế ngồi, tôi hỏi thì được biết đây là món quà của một người thợ trước khi rời giàn khoan để về bờ. Để đề xuất có bộ ghế ngồi mà chẳng biết bao giờ mới có nên người thợ đã thu gom các mảnh ván đóng thành bộ ghế ngồi tặng các đồng nghiệp ở lại.

Trong gian khó vẫn nộp ngân sách vượt 46,5% kế hoạch năm

Trong điều kiện rất khó khăn như vậy, nhưng kết quả kinh doanh của PVN năm 2018 vẫn rất tốt. Tổng sản lượng khai thác quy dầu 11 tháng năm 2018 là 22,1 triệu tấn, hoàn thành 96,8% kế hoạch năm. Sản lượng sản xuất điện, xăng dầu và đạm trong 11 tháng qua đều đạt chỉ tiêu đề ra, đặc biệt sản xuất đạm tính chung 11 tháng đạt 1.477 nghìn tấn, hoàn thành 96,4% kế hoạch năm. Tổng doanh thu toàn tập đoàn 11 tháng đạt 542.344 tỷ đồng, vượt 2,2% kế hoạch năm. Đặc biệt, tập đoàn đã nộp ngân sách Nhà nước đạt hơn 108.122 tỷ đồng, vượt 46,5% kế hoạch năm. Vừa qua, PVN vinh dự đứng đầu danh sách 500 doanh nghiệp có lợi nhuận tốt nhất Việt Nam năm 2018.

Theo Tổng giám đốc PVN Nguyễn Vũ Trường Sơn, hiện nay, PVN đã hoàn thiện đồng bộ ngành công nghiệp dầu khí từ khâu đầu tới khâu cuối. Ngành nghề kinh doanh chính của tập đoàn hiện tại tập trung vào 5 lĩnh vực trọng yếu, gồm: Tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí; chế biến dầu khí; công nghiệp khí; công nghiệp điện và dịch vụ dầu khí. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, giá dầu giảm mạnh (có lúc xuống dưới 30USD/thùng, chỉ bằng 30% so với giá dầu trung bình giai đoạn 2010-2015), cùng với các vụ việc xảy ra ở tập đoàn từ năm 2015 đến nay ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của tập đoàn. Song, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương và nhân dân cả nước, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của tập thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên, tập đoàn đã trụ vững và tiếp tục đạt được những kết quả khích lệ, như: Nộp ngân sách Nhà nước hằng năm chiếm tỷ trọng 9-11% tổng thu ngân sách chung của Nhà nước và chiếm 16,5-17% tổng thu ngân sách Trung ương.

Do thiếu vốn tái đầu tư nên lợi nhuận hiện tại đang "ăn" vào tương lai

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực dầu khí, hiện nay có 3 vấn đề chính liên quan đến cơ chế, chính sách mà NDK cần được quan tâm tháo gỡ. Thứ nhất, Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về "Chiến lược phát triển NDK Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035” (sau đây gọi là Nghị quyết 41) đã được ban hành 3 năm nay còn nguyên tính thời sự để giúp NDK phát triển bền vững. Tuy nhiên, đến nay, Nghị quyết 41 vẫn chưa được thể chế hóa vào các luật, nghị định. Thứ hai, nhiều quy định trong Luật Dầu khí không còn phù hợp trong tình hình hiện nay khi Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều các hiệp định thương mại thế hệ mới, trong đó có Hiệp định CPTPP, nên cần được nghiên cứu, sửa đổi. Thứ ba, các luật chuyên ngành, như: Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng... có những quy định không phù hợp với việc xây dựng các công trình của NDK.

Điều cũng đáng quan tâm là phần trích lại từ lợi nhuận bán dầu của PVN, phần tài chính thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn các công ty thuộc PVN được trích lại còn quá ít so với nhu cầu để PVN có thể tái đầu tư trong việc tìm kiếm, thăm dò các mỏ dầu mới. Do thiếu vốn để thăm dò và cơ chế tài chính phù hợp để thực hiện hoạt động mang tính rủi ro cao này nên xảy ra sự mất cân đối trầm trọng giữa gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác, xảy ra hiện tượng tiêu lạm vào dự trữ. Năm 2017, sản lượng khai thác quy dầu của PVN là 25 triệu tấn, nhưng tìm kiếm thăm dò, gia tăng trữ lượng chỉ đạt 4 triệu tấn. Năm 2018, PVN đặt mục tiêu tìm kiếm, thăm dò để gia tăng trữ lượng quy dầu đạt 10-15 triệu tấn, tuy nhiên đến hết tháng 8-2018 mới đạt có 2 triệu tấn. Trong khi đó, nhiều mỏ dầu truyền thống chủ lực đóng góp sản lượng quan trọng cho PVN sau 20-30 năm khai thác đang suy giảm nhanh. Các mỏ đang dưới dạng tận thu, tránh lãng phí tài nguyên nên cũng đòi hỏi chi phí lớn hơn.

Dầu khí là ngành kinh tế-kỹ thuật đặc biệt, gắn liền không chỉ bài toán năng lượng mà còn là chuỗi giá trị kinh tế trong chiến lược phát triển đất nước, liên quan đến chất lượng cuộc sống của người dân. Do đó, các vấn đề của NDK cần được quan tâm, xem xét thấu đáo. Ví như, công nghiệp khí cần được xem xét trong chuỗi giá trị từ khâu khai thác-xử lý đến vận chuyển-hộ tiêu thụ (điện, đạm, CN hóa dầu)-hiệu quả phát triển kinh tế vùng. Các yếu tố này cần được cân nhắc để có một giá khí hợp lý, có lợi nhuận hài hòa nhằm kích thích nhà đầu tư khai thác, hộ tiêu thụ và quyền lợi của Nhà nước. Cùng với đó, những bất cập trong Luật Đấu thầu 2013 đang tạo ưu tiên cho dịch vụ nước ngoài ngay trên các công trình của PVN tại Việt Nam, nhưng lại hạn chế sự phát triển dịch vụ trong nước, đặc biệt đối với các công trình do PVN đầu tư. Vì vậy, cần xem xét, điều chỉnh Luật Đấu thầu để phát huy nội lực các dịch vụ chuyên ngành trong nước.

Cần phải khẳng định rằng, tài nguyên dầu khí là tài nguyên quý giá của đất nước. NDK Việt Nam là công cụ của Đảng, của Nhà nước trong khai thác tài nguyên, phát triển ngành công nghiệp dầu khí để phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời tham gia giữ vững chủ quyền quốc gia trên Biển Đông. Vì thế, NDK Việt Nam cần được quan tâm đầu tư một cách đặc biệt, tạo những cơ chế phù hợp để ngọn lửa dầu khí Việt Nam luôn rực sáng.

Theo QĐND

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • pvp-2023
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 68,150 ▲100K 68,950 ▲100K
AVPL/SJC HCM 68,150 ▲50K 68,850 ▲50K
AVPL/SJC ĐN 68,150 ▲100K 68,950 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 56,100 ▼150K 56,350 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 56,070 ▼130K 56,270 ▼130K
AVPL/SJC Cần Thơ 68,150 ▲100K 68,950 ▲100K
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 56.300 ▼200K 57.300 ▼200K
TPHCM - SJC 68.100 68.800
Hà Nội - PNJ 56.300 ▼200K 57.300 ▼200K
Hà Nội - SJC 68.100 68.800
Đà Nẵng - PNJ 56.300 ▼200K 57.300 ▼200K
Đà Nẵng - SJC 68.100 68.800
Miền Tây - PNJ 56.300 ▼200K 57.300 ▼200K
Miền Tây - SJC 68.300 ▲50K 68.900 ▲50K
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 56.300 ▼200K 57.250 ▼250K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 56.200 ▼200K 57.000 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 41.500 ▼150K 42.900 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 32.100 ▼110K 33.500 ▼110K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 22.460 ▼90K 23.860 ▼90K
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Vàng TT, 3A, NT Nghệ An 5,620 ▼15K 5,720 ▼15K
Vàng trang sức 99.99 5,565 ▼15K 5,700 ▼15K
Vàng trang sức 99.9 5,555 ▼15K 5,690 ▼15K
Vàng NL 99.99 5,580 ▼15K
Vàng miếng SJC Thái Bình 6,825 ▲15K 6,890 ▲15K
Vàng miếng SJC Nghệ An 6,815 ▲15K 6,885 ▲10K
Vàng miếng SJC Hà Nội 6,825 ▲15K 6,890 ▲15K
Vàng NT, ĐV, 3A Hà Nội 5,620 ▼15K 5,720 ▼15K
Vàng Nhẫn tròn, 3A, Đồng Vàng Thái Bình 5,620 ▼15K 5,720 ▼15K
Nhẫn tròn không ép vỉ Thái Bình 5,600 ▼15K
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 68,200 ▲50K 68,900 ▲50K
SJC 5c 68,200 ▲50K 68,920 ▲50K
SJC 2c, 1C, 5 phân 68,200 ▲50K 68,930 ▲50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 56,150 ▼200K 57,150 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 56,150 ▼200K 57,250 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 56,050 ▼200K 56,850 ▼200K
Nữ Trang 99% 55,087 ▼198K 56,287 ▼198K
Nữ Trang 68% 36,812 ▼136K 38,812 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 21,859 ▼83K 23,859 ▼83K
Cập nhật: 29/09/2023 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,333.78 15,488.67 15,986.71
CAD 17,609.33 17,787.20 18,359.15
CHF 26,016.28 26,279.07 27,124.08
CNY 3,258.38 3,291.29 3,397.63
DKK - 3,390.24 3,520.32
EUR 25,089.27 25,342.70 26,466.85
GBP 28,963.54 29,256.10 30,196.84
HKD 3,023.89 3,054.43 3,152.65
INR - 291.57 303.24
JPY 158.64 160.24 167.93
KRW 15.63 17.37 19.04
KWD - 78,412.29 81,552.96
MYR - 5,129.07 5,241.31
NOK - 2,239.68 2,334.94
RUB - 237.51 262.95
SAR - 6,458.57 6,717.25
SEK - 2,194.83 2,288.18
SGD 17,386.87 17,562.49 18,127.21
THB 588.34 653.71 678.79
USD 24,090.00 24,120.00 24,460.00
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,508 15,608 16,058
CAD 17,835 17,935 18,485
CHF 26,231 26,336 27,136
CNY - 3,287 3,397
DKK - 3,406 3,536
EUR #25,367 25,392 26,502
GBP 29,368 29,418 30,378
HKD 3,028 3,043 3,178
JPY 159.64 159.64 167.59
KRW 16.26 17.06 19.86
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,250 2,330
NZD 14,402 14,452 14,969
SEK - 2,192 2,302
SGD 17,384 17,484 18,084
THB 613.07 657.41 681.07
USD #24,045 24,125 24,465
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 24,120 24,120 24,420
USD(1-2-5) 23,901 - -
USD(10-20) 23,901 - -
GBP 29,094 29,270 30,162
HKD 3,035 3,056 3,144
CHF 26,100 26,258 27,076
JPY 159.86 160.82 168.14
THB 636.62 643.05 686.55
AUD 15,414 15,507 15,951
CAD 17,677 17,784 18,325
SGD 17,459 17,564 18,060
SEK - 2,201 2,274
LAK - 0.91 1.26
DKK - 3,396 3,508
NOK - 2,245 2,320
CNY - 3,290 3,379
RUB - 225 289
NZD 14,373 14,460 14,852
KRW 16 - 19.03
EUR 25,258 25,327 26,449
TWD 682.99 - 825.09
MYR 4,842.49 - 5,455.13
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,130.00 24,160.00 24,480.00
EUR 25,326.00 25,428.00 26,034.00
GBP 29,222.00 29,398.00 30,057.00
HKD 3,052.00 3,064.00 3,149.00
CHF 26,169.00 26,274.00 26,944.00
JPY 160.48 161.12 164.44
AUD 15,412.00 15,474.00 15,949.00
SGD 17,557.00 17,628.00 18,019.00
THB 647.00 650.00 681.00
CAD 17,776.00 17,847.00 18,245.00
NZD 14,356.00 14,840.00
KRW 17.37 18.85
Cập nhật: 29/09/2023 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24085 24135 24445
AUD 15544 15594 16003
CAD 17861 17911 18325
CHF 26487 26537 26960
CNY 0 3290.1 0
CZK 0 980 0
DKK 0 3406 0
EUR 25516 25566 26179
GBP 29518 29568 30040
HKD 0 3000 0
JPY 160.53 161.03 167.13
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 16.65 0
LAK 0 1.0536 0
MYR 0 5100 0
NOK 0 2190 0
NZD 0 14444 0
PHP 0 324 0
SEK 0 2100 0
SGD 17633 17683 18097
THB 0 625.9 0
TWD 0 708 0
XAU 6830000 6830000 6870000
XBJ 5500000 5500000 5700000
Cập nhật: 29/09/2023 17:00