ADB tăng nguồn hỗ trợ nữ doanh nhân Việt Nam

10:13 | 14/05/2019

208 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vừa nhận được 20,2 triệu USD từ Quỹ Sáng kiến Tài chính dành cho Nữ doanh nhân (We-Fi) để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) do phụ nữ làm chủ được tiếp cận nguồn tài chính và hoạt động đào tạo thiết yếu tại Việt Nam và Thái Bình Dương.

Đây là khoản viện trợ không hoàn lại thứ hai mà ADB nhận được từ We-Fi để tài trợ cho chương trình Tăng tốc phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp của phụ nữ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương (WAVES), với mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển đồng đều và bền vững thông qua các doanh nghiệp của phụ nữ và tinh thần kinh doanh khởi nghiệp của phụ nữ. Hiện nay, theo thống kê có khoảng 5.000 DNNVV do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam và khu vực Thái Bình Dương sẽ được hưởng lợi từ chương trình này.

adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam
ADB tăng nguồn hỗ trợ nữ doanh nhân Việt Nam theo đúng cam kết trong chiến lược đến năm 2030

Bà Keiko Nowacka, Chuyên gia Phát triển xã hội và giới của ADB, chia sẻ: “Các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có vai trò quan trọng trong những nỗ lực của khu vực châu Á và Thái Bình Dương nhằm đạt tới phát triển đồng đều và bền vững, song cần phá vỡ những rào cản về kinh tế và xã hội đối với phụ nữ để hiện thực hóa tiềm năng này. Đối với ADB, We-Fi là một cơ hội để đẩy nhanh tiến bộ về bình đẳng giới và thách thức hiện trạng từ lâu đời vốn ngăn cản các DNNVV do phụ nữ làm chủ phát triển mạnh mẽ”.

Các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ chiếm khoảng 60% tổng số doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa ở châu Á và Thái Bình Dương. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này phải đối mặt với những hạn chế về nguồn vốn, gây ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, trong khi phụ nữ làm chủ các doanh nghiệp này chỉ được tiếp cận hạn chế các hoạt động đào tạo kinh doanh và hỗ trợ trọng tâm của chính phủ. Chương trình WAVES sẽ khắc phục những hạn chế này bằng cách tập trung vào 3 lĩnh vực phát triển của các DNNVV do phụ nữ làm chủ gồm: tiếp cận nguồn tài chính, xây dựng năng lực và tạo môi trường thuận lợi.

Chương trình này sẽ cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính của các DNNVV do phụ nữ làm chủ thông qua những cách tiếp cận tài chính sáng tạo, bao gồm định giá dựa trên kết quả hoạt động và trái phiếu giới đầu tiên ở khu vực Thái Bình Dương. Việc này là rất quan trọng, trong bối cảnh châu Á và Thái Bình Dương là một trong những nơi bị thiếu hụt nguồn tài chính dành cho DNNVV lớn nhất trên toàn cầu, với 59% trong tỉ lệ thiếu hụt này là do hạn chế tín dụng dành cho các DNNVV do phụ nữ làm chủ. Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) ước tính số thiếu hụt tài chính của các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam là khoảng 1,19 tỉ USD.

Trong khi đó, các đối tác trong nước bao gồm các cơ quan chính phủ, tổ chức xã hội dân sự và các hiệp hội kinh doanh của phụ nữ chưa được huy động để hỗ trợ thiết kế và triển khai các quy định, chính sách và kế hoạch hành động đáp ứng về giới nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ phát triển mạnh mẽ và mở rộng.

Chương trình WAVES sẽ tập trung vào xây dựng năng lực cho phụ nữ thông qua các chương trình cung cấp kiến thức cơ bản về tài chính và thúc đẩy kinh doanh, hướng dẫn tư vấn, cùng các cơ hội xây dựng mạng lưới, với quan điểm trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết để vận hành và mở rộng doanh nghiệp của mình. Cuối cùng, WAVES sẽ góp phần tăng cường các minh chứng và dữ liệu về DNNVV do phụ nữ làm chủ để tạo cơ sở tốt hơn cho các chính sách và hoạt động hỗ trợ sau này.

Trong tháng 4/2018, ADB đã nhận được khoản viện trợ trị giá 12,6 triệu USD từ We-Fi để tăng cường hỗ trợ các doanh nhân nữ tại Sri Lanka. ADB đang đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp của phụ nữ ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, như một phần trong cam kết của mình về việc thúc đẩy trao quyền về kinh tế cho phụ nữ - một trong những ưu tiên hoạt động trong Chiến lược 2030 mới được thông qua của ADB. Tới năm 2030, dự kiến 75% số dự án của ADB sẽ thúc đẩy bình đẳng giới.

We-Fi thuộc quyền quản trị của 14 quốc gia góp vốn sáng lập và do Ngân hàng Thế giới quản lý. Mục tiêu của Quỹ là huy động được hơn 1 tỉ USD tài trợ thương mại và tài trợ từ các thể chế tài chính quốc tế để cho phép các nữ doanh nhân được tiếp cận vốn vay, cổ phần, quỹ đầu tư mạo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm, cùng những cơ hội khác để liên kết với các thị trường nội địa và toàn cầu. Mục tiêu là cải thiện môi trường kinh doanh cho các DNNVV do phụ nữ làm chủ hoặc lãnh đạo.

Tùng Phong

adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ giảm trong năm nay và năm sau
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

188 triệu USD cho Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB giúp Việt Nam tăng cường nhân lực ngành Y tế
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB và BIDV ký kết hợp đồng tín dụng 300 triệu USD hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

Nữ doanh nhân Việt Nam: Làm kinh tế giỏi nhưng trái tim luôn hướng về cộng đồng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
TPHCM - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Hà Nội - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Hà Nội - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Miền Tây - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.450 ▲450K 75.250 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.800 ▲500K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.450 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.400 ▲500K 74.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.400 ▲370K 55.800 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.160 ▲290K 43.560 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.620 ▲210K 31.020 ▲210K
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,326 16,426 16,876
CAD 18,318 18,418 18,968
CHF 27,332 27,437 28,237
CNY - 3,458 3,568
DKK - 3,599 3,729
EUR #26,748 26,783 28,043
GBP 31,329 31,379 32,339
HKD 3,163 3,178 3,313
JPY 158.56 158.56 166.51
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,269 2,349
NZD 14,843 14,893 15,410
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,182 18,282 19,012
THB 633.28 677.62 701.28
USD #25,138 25,138 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 17:00