ADB hạ triển vọng tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á xuống còn 4,0%

08:51 | 20/07/2021

6,451 lượt xem
|
(PetroTimes) - Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã hạ dự báo triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Đông Nam Á từ 4,4% xuống còn 4,0%, trong khi dự báo cho các nền kinh tế Thái Bình Dương giảm từ 1,4% xuống còn 0,3%.

Trong báo cáo được phát đi sáng 20/7, ADB dự báo mức tăng trưởng kinh tế 7,2% trong năm nay cho Châu Á đang phát triển, so với mức dự báo 7,3% hồi tháng 4, do các đợt bùng phát mới của dịch bệnh do vi-rút corona (Covid-19) làm chậm quá trình phục hồi ở một số nền kinh tế trong khu vực. Triển vọng cho năm 2022 được nâng từ 5,3% lên 5,4%.

ADB hạ triển vọng tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á xuống còn 4,0%
Ảnh minh hoạ

Không tính các nền kinh tế công nghiệp hóa mới gồm Hồng Kông (Trung Quốc); Hàn Quốc; Xing-ga-po; và Đài Loan (Trung Quốc), triển vọng tăng trưởng cập nhật của Châu Á đang phát triển là 7,5% cho năm 2021 và 5,7% cho năm 2022, so với các con số dự báo trước đây lần lượt là 7,7% và 5,6%. Bản bổ sung cho ấn phẩm kinh tế hàng đầu của ADB, báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2021, đưa ra những dự báo cập nhật cho các nền kinh tế của khu vực và mức lạm phát trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: “Công cuộc phục hồi sau đại dịch COVID-19 của Châu Á và Thái Bình Dương đang tiếp diễn, mặc dù con đường còn bấp bênh trong bối cảnh các đợt bùng phát mới, các biến thể vi-rút mới và việc triển khai vắc-xin không đồng đều. Ngoài các biện pháp ngăn chặn và tiêm chủng, việc phục hồi các hoạt động kinh tế có chiến lược và theo từng giai đoạn — ví dụ như thương mại, sản xuất và du lịch — sẽ là chìa khóa để bảo đảm công cuộc phục hồi xanh, bao trùm và bền bỉ.

Đại dịch Covid-19 vẫn là nguy cơ lớn nhất đối với triển vọng này, do các đợt bùng phát tiếp tục diễn ra ở nhiều nền kinh tế. Số ca mắc mới hàng ngày trong khu vực đã lên tới đỉnh điểm là 434.000 ca hồi giữa tháng 5. Con số này giảm xuống còn 109.000 ca vào cuối tháng 6, tập trung chủ yếu ở Nam Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Trong khi đó, việc triển khai vắc-xin trong khu vực đang dần được đẩy mạnh, với trung bình 41,6 liều trên 100 người vào cuối tháng 6 — cao hơn con số trung bình toàn cầu là 39,2, nhưng thấp hơn so với tỉ lệ 97,6 ở Hoa Kỳ và 81,8 tại Liên minh Châu Âu.

Triển vọng tăng trưởng của Đông Á cho năm 2021 tăng từ 7,4% hồi tháng 4 lên 7,5%, trong bối cảnh mức phục hồi mạnh mẽ hơn dự kiến của các nền kinh tế công nghiệp hóa mới gồm Hồng Kông (Trung Quốc); Hàn Quốc; và Đài Loan (Trung Quốc). Dự báo tăng trưởng cho tiểu vùng này trong năm 2022 được giữ nguyên ở mức 5,1%. Tương tự, triển vọng tăng trưởng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng được duy trì ở mức 8,1% cho năm nay và 5,5% cho năm 2022, trong bối cảnh sự phục hồi ổn định của các ngành công nghiệp, xuất khẩu và dịch vụ.

Triển vọng tăng trưởng của năm nay cho khu vực Trung Á đã được nâng lên 3,6%, so với mức 3,4% trong dự báo hồi tháng 4. Điều này chủ yếu là nhờ triển vọng được cải thiện tại Ác-mê-nia, Gioóc-gia và Ca-dắc-xtan—nền kinh tế lớn nhất của tiểu vùng. Triển vọng của Trung Á trong năm 2022 vẫn giữ nguyên ở mức 4,0%.

Dự báo cho năm 2021 đối với các khu vực Nam Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương bị hạ thấp, do các đợt bùng phát mới đang được ứng phó bằng các biện pháp ngăn chặn và hạn chế, gây thiệt hại tới hoạt động kinh tế. Triển vọng tăng trưởng của Nam Á cho năm tài khóa 2021 giảm từ 9,5% xuống còn 8,9%. Dự báo cho Ấn Độ bị hạ một điểm phần trăm, xuống còn 10,0%. Triển vọng năm 2021 của Đông Nam Á được điều chỉnh từ 4,4% xuống còn 4,0%, trong khi dự báo cho các nền kinh tế Thái Bình Dương giảm từ 1,4% xuống còn 0,3%. Tuy nhiên, dự báo tăng trưởng của năm 2022 cho các tiểu vùng này đã tăng lần lượt lên 7,0%, 5,2% và 4,0%.

Dự báo về mức lạm phát năm nay của Châu Á và Thái Bình Dương được nâng từ 2,3% hồi tháng 4 lên 2,4%, phản ánh giá dầu và giá hàng hóa gia tăng. Con số dự báo cho năm 2022 vẫn ở mức 2,7%.

Hải Anh

WHO: Thế giới có thể kiểm soát Covid-19 vào năm sau nếu WHO: Thế giới có thể kiểm soát Covid-19 vào năm sau nếu "may mắn"
Covid-19 Covid-19 "bùng nổ" trở lại ở Mỹ, nhà đầu tư ồ ạt bán tháo chứng khoán
Bí thư Bến Tre: Bí thư Bến Tre: "Tập trung cao độ đẩy lùi dịch bệnh để phát triển kinh tế"
Cách tiết kiệm điện khi làm việc tại nhà trong bối cảnh dịch Covid-19Cách tiết kiệm điện khi làm việc tại nhà trong bối cảnh dịch Covid-19
Miễn kiểm giấy xét nghiệm Covid-19 lái xe vận chuyển hàng hóa nội vùng 19 tỉnh phía NamMiễn kiểm giấy xét nghiệm Covid-19 lái xe vận chuyển hàng hóa nội vùng 19 tỉnh phía Nam
Từ ký ức tháng 7 đến niềm tin chiến thắng đại dịch Covid-19Từ ký ức tháng 7 đến niềm tin chiến thắng đại dịch Covid-19

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Hà Nội - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Đà Nẵng - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Miền Tây - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Tây Nguyên - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Đông Nam Bộ - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,230 ▲380K 14,600 ▲360K
Trang sức 99.9 14,220 ▲380K 14,590 ▲360K
NL 99.99 14,230 ▲380K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲380K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
Miếng SJC Thái Bình 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Miếng SJC Nghệ An 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Miếng SJC Hà Nội 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,441 ▲20K 14,612 ▲200K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,441 ▲20K 14,613 ▲200K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,423 ▲38K 1,445 ▲33K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,423 ▲38K 1,446 ▲33K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 140 ▼1227K 143 ▼1254K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 137,084 ▲3267K 141,584 ▲3267K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 99,911 ▲2476K 107,411 ▲2476K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 899 ▼86757K 974 ▼94182K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 79,889 ▲2013K 87,389 ▲2013K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,027 ▲1924K 83,527 ▲1924K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,287 ▲1376K 59,787 ▲1376K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16444 16712 17290
CAD 18193 18469 19085
CHF 32128 32510 33161
CNY 0 3470 3830
EUR 29814 30086 31114
GBP 34139 34529 35474
HKD 0 3259 3461
JPY 166 170 176
KRW 0 17 19
NZD 0 14667 15250
SGD 19706 19988 20514
THB 719 782 835
USD (1,2) 26087 0 0
USD (5,10,20) 26129 0 0
USD (50,100) 26157 26192 26369
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,101 30,125 31,245
JPY 170.5 170.81 177.84
GBP 34,626 34,720 35,511
AUD 16,797 16,858 17,285
CAD 18,459 18,518 19,030
CHF 32,525 32,626 33,284
SGD 19,911 19,973 20,580
CNY - 3,646 3,740
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.05 17.78 19.07
THB 770.71 780.23 829.32
NZD 14,716 14,853 15,189
SEK - 2,725 2,806
DKK - 4,027 4,140
NOK - 2,562 2,638
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,847.43 - 6,553.65
TWD 775.84 - 933.41
SAR - 6,931.8 7,250.59
KWD - 83,851 88,599
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 29,889 30,009 31,089
GBP 34,535 34,674 35,609
HKD 3,323 3,336 3,438
CHF 32,189 32,318 33,188
JPY 169.17 169.85 176.61
AUD 16,832 16,900 17,417
SGD 19,952 20,032 20,541
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,833 15,311
KRW 17.73 19.37
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16638 16738 17351
CAD 18381 18481 19082
CHF 32366 32396 33270
CNY 0 3655.6 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30002 30032 31055
GBP 34461 34511 35619
HKD 0 3390 0
JPY 169.74 170.24 177.26
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14782 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19867 19997 20736
THB 0 748.2 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14410000 14410000 14610000
SBJ 14000000 14000000 14610000
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,183 26,233 26,369
USD20 26,183 26,233 26,369
USD1 26,183 26,233 26,369
AUD 16,822 16,922 18,032
EUR 30,219 30,219 31,531
CAD 18,366 18,466 19,777
SGD 19,993 20,143 21,155
JPY 170.22 171.72 176.29
GBP 34,773 34,923 35,695
XAU 14,488,000 0 14,642,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/10/2025 23:00