Xung đột tại Ukraine định hình lại thị trường dầu mỏ toàn cầu ra sao?

09:44 | 31/05/2022

1,844 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cuộc xung đột tại Ukraine đã tái cấu trúc thị trường dầu mỏ toàn cầu, với việc châu Phi nhập cuộc đáp ứng nhu cầu dầu của châu Âu, còn Moscow chuyển hướng dầu thô sang châu Á.

Việc chuyển hướng này đánh dấu sự thay đổi về nguồn cung lớn nhất trong giao dịch dầu mỏ toàn cầu kể từ khi cuộc cách mạng đá phiến Mỹ làm thay đổi thị trường này cách đây khoảng một thập kỷ trước. Điều này cũng cho thấy Nga vẫn sẽ tránh được lệnh cấm vận dầu của EU nếu châu Á và Trung Quốc vẫn tiếp tục mua dầu thô của họ.

Xung đột tại Ukraine định hình lại thị trường dầu mỏ toàn cầu ra sao? - 1
Cuộc xung đột tại Ukraine đã tái cấu trúc thị trường dầu mỏ toàn cầu, với việc châu Phi nhập cuộc đáp ứng nhu cầu dầu của châu Âu, còn Moscow chuyển hướng dầu thô sang châu Á (Ảnh: Reuters).

Dầu Nga chuyển hướng sang châu Á

Kể từ sau khi cuộc xung đột xảy ra vào cuối tháng 2, các lệnh trừng phạt của phương Tây đã liên tiếp dội xuống Nga, bao gồm lệnh cấm nhập khẩu dầu của Mỹ, khiến Nga phải xoay trục khỏi châu Âu. Dầu thô của Nga bị người mua châu Âu xa lánh khiến nước này phải chuyển hướng sang các khách hàng ở Ấn Độ và Trung Quốc.

Theo dữ liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) có trụ sở tại Paris (Pháp), xuất khẩu dầu thô của Nga trong tháng 4 đã quay trở lại như mức trước cuộc chiến và giá dầu cũng ổn định quanh mốc 110 USD/thùng sau khi đạt mức cao nhất trong 14 năm, trên 139 USD/thùng trong tháng 3.

Ngay cả khi châu Âu đồng ý áp lệnh cấm dầu Nga trong vòng trừng phạt tiếp theo thì các nhà phân tích cũng cho rằng tác động của lệnh cấm này có thể sẽ nhẹ hơn nhờ nhu cầu từ châu Á.

"Chúng tôi không thấy có sự chênh lệch về nguồn cung lớn trên thị trường và giá dầu tăng vọt, trừ phi phương Tây gây áp lực ngoại giao đối với người mua ở châu Á", Norbert Rücker, người đứng đầu bộ phận kinh tế và nghiên cứu thế hệ mới của công ty quản lý tài sản Thụy Sĩ Julius Baer, cho biết.

Các lệnh trừng phạt của Mỹ, EU và Anh đã cấm các con tàu của Nga hoặc mang cờ hiệu của Nga. Điều đó tạo điều kiện cho các chuyến tàu chuyển hướng sang châu Á nhiều hơn.

Theo công ty theo dõi tàu chở dầu Petro-Logistics và các dữ liệu khác, nhìn chung, dòng chảy của dầu Nga tới châu Á thông qua đường biển đã tăng vọt ít nhất 50% so với hồi đầu năm.

Hoạt động vận chuyển giữa các con tàu, chiếm một phần nhỏ trong tổng thương mại đường biển, cũng đã chuyển hướng khỏi bờ biển Đan Mạch tới Biển Địa Trung Hải để tránh các lệnh trừng phạt.

Ông Mark Gerber, Chủ tịch của Petro-Logistics cho rằng: "Việc chuyển từ tàu sang tàu (STS) vốn phổ biến ở vùng biển Đan Mạch, điểm vào của biển Baltic. Nhưng điều đó giờ không còn nữa, xu hướng STS từ tàu chở dầu bị trừng phạt sang tàu không bị trừng phạt đang gia tăng ở vùng biển Địa Trung Hải ấm hơn và thân thiện hơn".

Ông Gerber cho biết khối lượng dầu thô và các sản phẩm của Nga được chuyển giao giữa các con tàu ở Địa Trung Hải vào khoảng 400.000 thùng/ngày, trong đó phần lớn đến châu Á, tăng lên 2,3 triệu thùng/ngày.

Trong khi đó, hồi tháng 1, trước khi cuộc chiến nổ ra, Nga chuyển trực tiếp khoảng 1,5 triệu thùng/ngày tới châu Á.

Các nhà giao dịch cũng cho biết, dầu Nga trên các tàu chở dầu Aframax hoặc Suezmax có sức chở dưới 1 triệu thùng đã được chuyển sang các con tàu lớn hơn với sức chở 2 triệu thùng, giúp tiết kiệm chi phí vận chuyển hơn.

Khối lượng vận chuyển bằng đường biển chỉ là một phần trong tổng khối lượng xuất khẩu dầu của Nga. Tính cả nguồn cung qua đường ống, tổng lượng xuất khẩu dầu thô và các sản phẩm của Nga trong tháng 4 là trên 8 triệu thùng, bằng mức trước khi cuộc chiến nổ ra.

Châu Âu tăng nhập dầu thô từ Tây Phi

Để bù đắp cho sự thiếu hụt dầu Nga, các nhà máy lọc dầu ở châu Âu đã chuyển sang nhập khẩu dầu thô từ Tây Phi. Theo Petro-Logistics, nhập khẩu dầu thô từ khu vực này của châu Âu đã tăng 17% trong tháng 4 so với mức trung bình trong giai đoạn 2018-2021.

Dữ liệu của Eikon cũng cho thấy có sự gia tăng lượng dầu thô từ khu vực này. Eikon cho biết trong tháng 5, 660.000 thùng dầu/ngày chủ yếu từ Nigeria, Angola và Cameroon được vận chuyển đến các quốc gia phía tây bắc của châu Âu, với 3 chuyến hàng của Nigerian Amenam so với 1 chuyến hồi tháng 2.

Trong khi đó, theo ông Gerber, lượng dầu thô Tây Phi xuất khẩu tới Ấn Độ đã giảm gần một nửa, với 280.000 thùng/ngày được vận chuyển trong tháng 4 so với 510.000 thùng/ngày hồi tháng 3. Nguyên nhân là do Delhi đã chuyển hướng sang nhập khẩu nhiều dầu Nga hơn.

Các nhà giao dịch cho biết, với nhu cầu gia tăng từ châu Âu, giá dầu ngọt nhẹ của Nigeria đã đạt mức cao kỷ lục. Dầu thô Forcados của nước này đã được chào giá cao hơn dầu Brent ít nhất 7 USD.

Theo Petro-Logistics, nguồn cung dầu từ Bắc Phi tới châu Âu đã tăng 30% kể từ tháng 3. Trong số này, dữ liệu từ Eikon cho thấy lượng hàng, mà các nhà phân tích cho là dầu thô của Ả rập, đến vùng tây bắc châu Âu từ cảng Sidi Kerir của Ai Cập đã tăng gấp đôi so với tháng 3, lên 400.000 thùng/ngày trong tháng 5.

Mỹ cũng đã tăng cường cung cấp dầu thô cho châu Âu. Theo công ty theo dõi Kpler, nhập khẩu dầu thô từ Mỹ trong tháng 5 của châu Âu (trên cơ sở đã giao) tăng hơn 15% so với tháng 3, mức tăng hàng tháng mạnh nhất trong hồ sơ theo dõi của công ty này. Châu Âu đã nhập khoảng 1,45 triệu thùng/ngày từ Mỹ.

Theo Dân trí

EU giải thích lý do chưa thể cấm ngay tức thì dầu của NgaEU giải thích lý do chưa thể cấm ngay tức thì dầu của Nga
EU bế tắc trong việc đồng thuận cấm vận dầu NgaEU bế tắc trong việc đồng thuận cấm vận dầu Nga
Chiến sự miền Đông Chiến sự miền Đông "nóng rực", ông Putin sẵn sàng đàm phán với Ukraine
Ukraine kêu gọi Đức ngừng đường ống khí đốt Dòng chảy Phương Bắc 1Ukraine kêu gọi Đức ngừng đường ống khí đốt Dòng chảy Phương Bắc 1
Ukraine cảnh báo thành viên NATO phản đối trừng phạt NgaUkraine cảnh báo thành viên NATO phản đối trừng phạt Nga
"Cơn khát" năng lượng Nga và "cái khó" của Trung Quốc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 30/06/2025 01:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 30/06/2025 01:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 30/06/2025 01:00