Xăng dầu lại tăng giá: Giải cứu doanh nghiệp thế nào đây?

14:06 | 29/08/2012

863 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nền kinh tế chưa “bắt nhịp” được với lần điều chỉnh tăng giá xăng dầu thêm 1.100 đồng/lít ngày 13/8 thì đã bị dội một gáo nước lạnh bằng quyết định điều chỉnh giá xăng dầu thêm 650 đồng/lít vào chiều 28/8.

Sức mua của người dân yếu là một trong nhiều nguyên nhân khiến hàng tồn kho tăng cao.

 

Với mục tiêu giảm thiểu những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải, chủ trương giãn, giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5 của Chính phủ đã được Bộ Tài chính thực hiện rất quyết liệt.

Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 7/2012, ngành tài chính đã thực hiện gia hạn số thuế phải nộp cho khoảng 208.250 lượt doanh nghiệp với tổng số tiền gia hạn xấp xỉ 10.000 tỉ đồng. Ngoài ra, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, ngành cũng đã giải quyết gia hạn nợ thuế cho khoảng 8.260 doanh nghiệp với tổng số thuế được gia hạn là 347,5 tỉ đồng.

Như vậy, cùng với việc giảm thuế đất và chủ trương miễn thuế buôn bài năm 2012, tính đến thời điểm này, ngành tài chính đã thực hiện miễn, giảm và giãn thuế cho các doanh nghiệp lên tới gần 11.000 tỉ đồng. Đây có thể xem là con số đầy “nỗ lực” và “cố gắng” của ngành tài chính trong bối cảnh nhiều khoản thu ngân sách dự kiến trong năm đều giảm.

Và theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn nhiều lần khẳng định trên báo chí thì chủ trương miễn, giảm và giãn thuế chỉ là hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất, giảm bớt những khó khăn trong bối cảnh hàng tồn kho vẫn đang duy trì ở mức cao như hiện nay.

Những nỗ lực trên của ngành tài chính trong suốt thời gian qua giường như bước đầu đã mang lại kết quả lạc quan, điều này được thể hiện khá rõ tại bản báo cáo của Tổng cục Thuế về tình hình hoạt động của doanh nghiệp tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2012. Theo đó, chỉ tính riêng trong 7 đã có 937 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, số doanh nghiệp có lãi trước thuế cũng đã tăng so với quý I/2012 là 2,5%.

Những kết quả trên có thể xem là tích cực, đáng vui mừng trong bối cảnh nền kinh tế đang bị “bí bách” đầu ra như hiện nay. Tuy nhiên, với những diễn biến đầy bất lợi như giá điện, gas và đặc biệt là mặt hàng xăng dầu liên tục tăng giá khiến nỗ lực giải cứu doanh nghiệp lại lâm vào thế bí. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một lần nữa lại bị đẩy vào thế khó và bài toán làm sao giải cứu doanh nghiệp đang xuất hiện một tình tiết mới đầy khó khăn.

 

Xăng tăng giá khiến nỗ lực giảm giá thành sản phẩm của doanh nghiệp lầm vào bế tắc.

 

Theo nhận định của nhiều chuyên gia thì một trong những vấn đề vướng mắc được xem là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng trì trệ, ế ẩm và lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp tăng cao là sức mua của người dân đang rất yếu. Và trong bối cảnh chi phí đầu vào của doanh nghiệp tiếp tục bị đẩy lên thì đồng nghĩa với việc nỗ lực giảm giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là bất khả kháng. Giá sản phẩm không thể giảm, khả năng chi trả tiêu dùng của người dân yếu thì lượng hàng tồn kho tăng là hệ quả tất yếu.

Nói như vậy để thấy rằng, trong khi cả nền kinh tế đang tìm mọi cách để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay và bước đầu đã có những tín hiệu lạc quan đã và đang bị quyết định điều chỉnh giá xăng dầu thời gian gần đây xóa bỏ hoàn toàn. Giải cứu doanh nghiệp là mệnh lệnh của nền kinh tế và giải quyết đầu ra cho sản phẩm là con đường sống còn với doanh nghiệp nhưng giải cứu sao đây khi giá nguyên liệu đầu vào cứ tăng, thậm chí là tăng mạnh.

Chi phí đầu vào tăng nhưng doanh nghiệp buộc phải giảm giá thành sản phẩm để kích sức tiêu dùng là bài toán không có lời giải. Doanh nghiệp Việt đang lâm vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, sống cũng khổ mà chết cũng chẳng xong!

Khó khăn, thách thức đối với doanh nghiệp như vậy là không hề nhỏ nhưng khó khăn, thách thức đó giường như lại đang tăng lên gấp bội. Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu dự kiến là sẽ lại tăng theo kiểu “tát nước theo mưa” trong thời gian tới càng khiến khả năng tiêu dùng của người dân thêm phần kiệt quệ.

Túi tiền của người dân đang phải đối diện với nguy cơ thủng đáy thì lấy đâu ra tiền mà mua sắm, tiêu dùng. Viễn cảnh này giờ có vẻ như đang dần trở thành hiện thực khi mà chủ trương tăng lương cơ bản tại các doanh nghiệp sản xuất đang được cân nhắc lìu lại. Lương không tăng cũng đồng nghĩa với việc thu nhập của người dân không tăng.

Qua đó để thấy rằng, dòng tiền mà Nhà nước đã dành ra để ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kích cầu sản xuất đã bất thành. Tiền miễn, giảm hay giãn thuế thực chất sẽ là con số không vì khoản tiền đó lại đang phải bù đắp vào các khoản chi phí đầu vào của doanh nghiệp.

Từ đó để thấy rằng, giải cứu doanh nghiệp tiếp tục là thách thức với nền kinh tế Việt Nam. Và chừng nào chưa có sự đồng bộ, thống nhất giữa các chủ trương và hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” còn diễn ra thì mọi nỗ lực vẫn sẽ không đem lại kết quả. Thậm chí, căn bệnh trì trệ, ế ẩm, hàng tồn kho tăng cao sẽ ngày một thêm trầm trọng!

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
AVPL/SJC HCM 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 ▼50K 11,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 ▼50K 11,240 ▼50K
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,720
Trang sức 99.9 11,260 11,710
NL 99.99 10,820 ▼45K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▼45K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,480 11,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,480 11,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,480 11,780
Miếng SJC Thái Bình 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Cập nhật: 04/07/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16668 16937 17516
CAD 18757 19035 19653
CHF 32360 32743 33406
CNY 0 3570 3690
EUR 30200 30473 31501
GBP 34982 35375 36315
HKD 0 3204 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15587 16181
SGD 20012 20295 20819
THB 725 788 842
USD (1,2) 25910 0 0
USD (5,10,20) 25950 0 0
USD (50,100) 25979 26013 26355
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,011 26,011 26,370
USD(1-2-5) 24,971 - -
USD(10-20) 24,971 - -
GBP 35,381 35,477 36,369
HKD 3,278 3,287 3,387
CHF 32,639 32,740 33,561
JPY 178.32 178.64 186.15
THB 772.7 782.24 836.31
AUD 16,947 17,008 17,487
CAD 18,988 19,049 19,605
SGD 20,176 20,238 20,915
SEK - 2,692 2,785
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,065 4,204
NOK - 2,559 2,647
CNY - 3,607 3,705
RUB - - -
NZD 15,570 15,715 16,174
KRW 17.76 18.52 19.99
EUR 30,411 30,435 31,671
TWD 818.44 - 990.77
MYR 5,802.25 - 6,544.49
SAR - 6,866.86 7,226.75
KWD - 83,541 88,829
XAU - - -
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26360
AUD 16855 16955 17520
CAD 18939 19039 19590
CHF 32608 32638 33512
CNY 0 3618.4 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30400 30450 31352
GBP 35297 35347 36457
HKD 0 3330 0
JPY 177.91 178.91 185.43
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15701 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20170 20300 21022
THB 0 754.4 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12050000
XBJ 10800000 10800000 12050000
Cập nhật: 04/07/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,030 26,080 26,330
USD20 26,030 26,080 26,330
USD1 26,030 26,080 26,330
AUD 16,903 17,053 18,117
EUR 30,535 30,685 31,854
CAD 18,893 18,993 20,306
SGD 20,257 20,407 20,873
JPY 178.3 179.8 184.42
GBP 35,379 35,529 36,305
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,507 0
THB 0 788 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 04/07/2025 14:00