Virus Corona khiến các đại gia hàng không mất “tiền tấn"

11:45 | 02/02/2020

460 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Virus Corona đang gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người dân. Không những vậy, các đại gia Việt cũng bị thiệt hại nặng nề từ dịch bệnh này. Đây cũng là thông tin đáng chú ý về các đại gia Việt tuần qua.

Bà Chu Thị Bình đáp trả ra sao với “hung tin” đầu năm?

Những ngày đầu năm 2020, Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú của vợ chồng “vua tôm” Lê Văn Quang - Chu Thị Bình đã nhận được tin xấu về việc Cục Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ (CBP) đã chính thức khởi xướng điều tra lẩn tránh thuế chống bán phá giá (CBPG) đối với MSeafood, công ty con của Minh Phú tại Hoa Kỳ.

Virus Corona khiến các đại gia hàng không mất “tiền tấn
Doanh nghiệp của vợ chồng ông Lê Văn Quang - bà Chu Thị Bình đang gặp rắc rối tại thị trường Hoa Kỳ

“Hết sức bất ngờ” về quyết định nói trên, lãnh đạo Minh Phú đánh giá, CBP đã chỉ dựa trên các thông tin một chiều được thu thập, cung cấp bởi tổ chức AHSTEC - đại diện cho một nhóm các công ty đánh bắt và chế biến tôm tại Hoa Kỳ, là tổ chức từ lâu đã tham gia vào các vụ kiện chống bán phá giá tôm Việt Nam với tư cách nguyên đơn.

Luật sư của Minh Phú tại Hoa Kỳ đã đăng ký với CBP để Minh Phú chính thức tham gia vào cuộc điều tra và cung cấp thông tin cùng các bằng chứng cụ thể để CBP xem xét trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Doanh nghiệp này cho biết sẽ hợp tác đầy đủ với CBP và chứng minh quyết định của CBP là “mang tính chất áp đặt, không minh bạch và chỉ dựa trên thông tin một chiều”.

VinFast và VinSmart mang về cho ông Nhật Vượng bao nhiêu tiền?

Trong 3 tháng cuối cùng của năm 2019, Vingroup đạt tổng doanh thu thuần hợp nhất 38.176 tỷ đồng, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận trước thuế đạt 6.255 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 3.590 tỷ đồng.

Trong đó, phân nửa vẫn đang đến từ nguồn doanh thu chuyển nhượng bất động sản. Cụ thể, doanh thu chuyển nhượng bất động sản của Vingroup trong quý IV/2019 đạt 15.027 tỷ đồng, cả năm 2019 đạt 64.501 tỷ đồng.

Tuy nhiên, theo tuyên bố của Vingroup thì “ông lớn bất động sản” nay đang chuyển mình sang hoạt động chính ở lĩnh vực công nghiệp và công nghệ.

Theo đó, trong quý IV/2019, số liệu báo cáo tài chính ghi nhận, doanh thu hoạt động sản xuất mang lại cho Vingroup của tỷ phú Phạm Nhật Vượng 5.643 tỷ đồng.

Cuộc chơi lớn của tỷ phú bậc nhất

Năm 2019, TTC của ông Đặng Văn Thành đã vươn lên trở thành nhà sản xuất điện hàng đầu, với tổng công suất vận hành các nhà máy điện của TTC đạt gần 500 MW, tăng 158 MW so đầu năm, mà đơn vị chủ lực là Điện Gia Lai (GEC).

Bên cạnh các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, TTC tập trung vào năng lượng tái tạo và đang thử nghiệm nhiều loại hình điện mặt trời mới mà nước Israel, Nhật Bản, Australia... đang phát triển thành công. TTC cũng ngày càng mở rộng đầu tư đa lĩnh vực: nông nghiệp, BĐS, năng lượng và du lịch, hướng đến mục tiêu trở thành một trong những tập đoàn đầu tư hàng đầu tại Việt Nam.

Riêng với ông Trần Bá Dương, sự hợp tác với Bầu Đức hướng tới một 'đế chế' nông nghiệp có tổng doanh thu xuất khẩu 2020 đạt 1,5 tỷ USD. Trong đó Thadi (công ty con của Thaco về mảng nông nghiệp) dự kiến mang về 600 triệu USD, HAGL Agrico của Bầu Đức 400 triệu và còn Thủy sản Hùng Vương 550 triệu USD.

Masan của ông Nguyễn Đăng Quang phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhanh và gần đây đẩy mạnh hoạt động trong lĩnh vực khai khoáng và bắt tay với tỷ phú Vượng trong lĩnh vực bán lẻ.

Tham vọng của các tỷ phú giàu nhất Việt Nam

Tỷ phú Phạm Nhật Vượng dự kiến sẽ chi 2 tỷ USD từ tài sản riêng cho VinFast để bán ô tô điện sang Mỹ vào năm 2021. Cùng với đó, VinFast cũng đang đầu tư dự án sản xuất công nghiệp phụ trợ 5 triệu sản phẩm mỗi năm cho xe ô tô và các loại xe khác và dự kiến dự án hoàn thiện và đưa vào kinh doanh khai thác vào quý IV/2022.

Virus Corona khiến các đại gia hàng không mất “tiền tấn

Trong khi đó, sang năm 2020, ông Đặng Văn Thành sẽ mang sản phẩm đường Organic xuất khẩu sang châu Âu - một trong những thị trường “khó tính” nhất, và 21 thị trường khác.

Trong lĩnh vực bất động sản, TTC Land của ông Thành cũng hợp tác với các đối tác quốc tế khi bắt tay hợp tác với Lotte E&C cuối 2019, dự kiến đầu tư khoảng 100 triệu USD.

Nhiều đại gia mất “tiền tấn” vì nỗi ám ảnh virus corona

Cổ phiếu ngành hàng không phiên giao dịch ngày 31/1 diễn biến tiêu cực nhất. VJC của nữ tỷ phú Phương Thảo giảm sàn 9.800 đồng xuống còn 130.200 đồng/cổ phiếu, không có dư mua trong khi dư bán sàn hơn 200 nghìn đơn vị. Đây cũng là mã có ảnh hưởng xấu nhất lên VN-Index, lấy đi của chỉ số 1,54 điểm.

Cùng với đó, HVN của Vietnam Airlines cũng đánh mất 1.850 đồng xuống còn 28.700 đồng và gây thiệt hại 0,76 điểm cho VN-Index. Một số mã lớn khác như VNM, GAS, VIC, FPT cũng diễn biến tiêu cực.

Ngược lại, DHG của Dược Hậu Giang tăng trần lên 99.500 đồng và là một trong những mã có diễn biến tích cực nhất trong phiên. Nhóm cổ phiếu ngân hàng “hồi sinh” với trạng thái tăng giá từ BID, CTG, VCB, MBB; VHM và MSN cũng tăng giá.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,249 16,269 16,869
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,226 27,246 28,196
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,549 3,719
EUR #26,278 26,488 27,778
GBP 31,124 31,134 32,304
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.32 157.47 167.02
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,223 2,343
NZD 14,817 14,827 15,407
SEK - 2,247 2,382
SGD 18,053 18,063 18,863
THB 632.7 672.7 700.7
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 21:00