Việt Nam nổi lên là “thiên đường” sản xuất mới ở Đông Nam Á

10:50 | 28/12/2020

188 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhận định, trong đại dịch COVID-19, Việt Nam nổi lên là “thiên đường” sản xuất mới ở Đông Nam Á, là nền kinh tế tăng trưởng cao hàng đầu thế giới.

Phát biểu khai mạc Hội nghị Chính phủ với các địa phương (ngày 28/12), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, sự kiện không chỉ tổng kết năm 2020 mà còn nhìn lại cả 4 năm trước đó.

Trong 3 năm, từ 2017 đến 2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đều tới dự và phát biểu chỉ đạo, định hướng phấn đấu cho cả bộ máy với tinh thần “năm sau phải đạt được nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm trước”; “không được ngủ quên trên vòng nguyệt quế”.
Trong 3 năm, từ 2017 đến 2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đều tới dự và phát biểu chỉ đạo, định hướng phấn đấu cho cả bộ máy với tinh thần “năm sau phải đạt được nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm trước”; “không được ngủ quên trên vòng nguyệt quế”.

Tăng trưởng bao trùm hơn

Nhớ lại 5 năm trước, khi Chính phủ bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển KTHX 5 năm, nền kinh tế đối mặt nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Sau 5 năm nhìn lại, đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ, tăng trưởng cao, mọi người dân được hưởng thành quả phát triển, niềm tin được củng cố…Thủ tướng cho biết Việt Nam đã đảm nhận nhiều vai trò quan trọng trên trường quốc tế và khu vực, tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng.

Riêng năm 2020, dưới tác động của COVID-19, nhiều nước rơi vào suy thoái, Việt Nam là quốc gia hiếm hoi duy trì tăng trưởng dương, dịch bệnh được kiểm soát, bảo đảm an sinh xã hội. Đến thời điểm này, Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép trong phòng chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Công tác xây dựng Đảng, phòng chống tham nhũng cũng được Đảng, Nhà nước đẩy mạnh.

“Mức độ thành công được xác định không chỉ bởi những gì chúng ta đã đạt được, mà bởi cả những trở ngại chúng ta đã vượt qua”, Thủ tướng nói.

Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh: Năm 2020 phải được xem là năm thành công nhất của nước ta trong 5 năm qua về tinh thần và ý chí vươn lên trong mọi khó khăn, thử thách. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với tương lai đất nước không ngừng được củng cố và nâng cao. "Những lúc khó khăn nhất, gai góc nhất là dịp để mỗi chúng ta thể hiện bản sắc của tinh thần dân tộc, sự đoàn kết, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, tô điểm cho bản lĩnh, ý chí, khí chất của con người Việt Nam", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.

Theo đó, Thủ tướng cho biết, đã cùng nhau tạo ra hơn 1200 tỷ USD GDP trong gần 5 năm, trên một nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định.

Tạp chí The Economist tháng 8 năm 2020 đã xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB), với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8% một năm giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất.

Tăng trưởng

Thủ tướng nhấn mạnh, tăng trưởng bao trùm hơn rất nhiều. Tăng trưởng kinh tế cả nước có sự đóng góp từ tăng trưởng ấn tượng của nhiều địa phương mới nổi, đây là nhân tố truyền cảm hứng khác cho nhiều địa phương khác vượt lên chính mình. Tăng trưởng cũng không phụ thuộc nhiều vào riêng thành phần kinh tế nào.

Việt Nam không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt nhiều tiến bộ nhanh chóng về xã hội. Việt Nam đã tạo ra hơn 8 triệu việc làm, thu nhập và mức sống người dân ngày càng tăng lên.

Theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2020 tăng 2,91% (quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng 2,69%; quý IV tăng 4,48%), tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2020 nhưng trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,85%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%; khu vực dịch vụ chiếm 41,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (cơ cấu tương ứng của năm 2019 là: 13,96%; 34,49%; 41,64%; 9,91%).

Việt Nam có thể đi đầu trong một số lĩnh vực

Tuy nhiên, Thủ tướng Chính phủ cũng thẳng thắn nhận định, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chính phủ đều nhận diện những hạn chế, khó khăn. "Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, đời sống của một bộ phận người dân chưa được bảo đảm, mặt bằng thu nhập còn thấp, khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn chung còn khó khăn, sức cạnh tranh thấp, cơ cấu nền kinh tế còn nhiều bất cập, những nút thắt về hạ tầng, nguồn nhân lực… Chất lượng giáo dục, y tế nhìn chung còn nhiều bất cập", Thủ tướng thẳng thắn, đồng thời nhắc tới những vấn đề sát sườn với người dân như tai nạn giao thông, cờ bạc, ma túy, ô nhiễm môi trường…

Nhắc tới những thay đổi hiện nay trong bối cảnh thế giới và thời đại, Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam chưa thể trong nhóm đứng đầu thế giới về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số lĩnh vực. Thủ tướng tin tưởng: "Những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc sẽ giúp làm nên thành công, như cha ông ta đã đứng vững trước mọi thiên tai, đẩy lùi mọi cuộc xâm lược, giúp chúng ta đạt được những thắng lợi trong 35 năm đổi mới".

Hội nghị Chính phủ với các địa phương chính thức khai mạc với quy mô toàn quốc. Năm gần đây nhất (2019), 14 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, 10 đồng chí Bí thư Trung ương Đảng, 60 đồng chí Bí thư Thành ủy, Bí thư Tỉnh ủy và tất cả Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố đã tham dự.
Hội nghị Chính phủ với các địa phương chính thức khai mạc với quy mô toàn quốc. Năm gần đây nhất (2019), 14 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, 10 đồng chí Bí thư Trung ương Đảng, 60 đồng chí Bí thư Thành ủy, Bí thư Tỉnh ủy và tất cả Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố đã tham dự.

"Hơn lúc nào, đây là thời điểm củng cố niềm tin, nền kinh tế, đất nước ta đang tiến nhanh về phía trước và chắc chắn dân tộc ta sẽ tiến nhanh hơn nữa về phía trước. Chúng ta không được chủ quan, chúng ta còn có thể làm tốt hơn nữa", Thủ tướng nhấn mạnh.

Người đứng đầu Chính phủ đặt yêu cầu, chúng ta cần biến nguy cơ thành cơ hội, biến cơ hội thành lợi thế, biến lợi thế thành nguồn lực, biến nguồn lực thành kết quả.

Riêng năm 2021, Thủ tướng cho biết, các chỉ tiêu cho năm 2021 đã được cân đối, tính toán trên nhiều yếu tố. Tình hình có nhiều thách thức, song Chính phủ quyết tâm điều hành để nâng tăng trưởng GDP thêm 0,5 điểm phần trăm trong năm 2021.

Theo enternews.vn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,800 117,800
AVPL/SJC HCM 115,800 117,800
AVPL/SJC ĐN 115,800 117,800
Nguyên liệu 9999 - HN 10,750 11,120
Nguyên liệu 999 - HN 10,740 11,110
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.200 113.800
TPHCM - SJC 115.800 117.800
Hà Nội - PNJ 111.200 113.800
Hà Nội - SJC 115.800 117.800
Đà Nẵng - PNJ 111.200 113.800
Đà Nẵng - SJC 115.800 117.800
Miền Tây - PNJ 111.200 113.800
Miền Tây - SJC 115.800 117.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.200 113.800
Giá vàng nữ trang - SJC 115.800 117.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.200
Giá vàng nữ trang - SJC 115.800 117.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.200 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.200 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.700 113.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.590 113.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.890 112.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.670 112.170
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.550 85.050
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.870 66.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.740 47.240
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.290 103.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.700 69.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.230 73.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.630 77.130
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.100 42.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.010 37.510
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,940 11,340
Trang sức 99.9 10,930 11,330
NL 99.99 10,700
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,150 11,400
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,150 11,400
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,150 11,400
Miếng SJC Thái Bình 11,580 11,780
Miếng SJC Nghệ An 11,580 11,780
Miếng SJC Hà Nội 11,580 11,780
Cập nhật: 03/06/2025 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16332 16599 17178
CAD 18468 18745 19365
CHF 31197 31575 32230
CNY 0 3530 3670
EUR 29091 29360 30391
GBP 34425 34816 35757
HKD 0 3187 3390
JPY 175 179 185
KRW 0 17 19
NZD 0 15345 15935
SGD 19688 19969 20489
THB 714 777 830
USD (1,2) 25762 0 0
USD (5,10,20) 25801 0 0
USD (50,100) 25829 25863 26208
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,820 25,820 26,180
USD(1-2-5) 24,787 - -
USD(10-20) 24,787 - -
GBP 34,752 34,847 35,770
HKD 3,256 3,266 3,365
CHF 31,320 31,418 32,296
JPY 178.22 178.55 186.51
THB 762.07 771.49 825.43
AUD 16,607 16,667 17,115
CAD 18,727 18,787 19,291
SGD 19,869 19,931 20,559
SEK - 2,688 2,781
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,912 4,048
NOK - 2,529 2,617
CNY - 3,573 3,670
RUB - - -
NZD 15,296 15,438 15,891
KRW 17.54 - 19.66
EUR 29,233 29,257 30,504
TWD 782.6 - 947.48
MYR 5,708.26 - 6,442.34
SAR - 6,812.62 7,171.81
KWD - 82,552 87,775
XAU - - -
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,840 25,850 26,190
EUR 28,994 29,110 30,221
GBP 34,471 34,609 35,588
HKD 3,253 3,266 3,371
CHF 31,085 31,210 32,125
JPY 176.91 177.62 185.02
AUD 16,466 16,532 17,064
SGD 19,841 19,921 20,467
THB 773 776 810
CAD 18,632 18,707 19,232
NZD 15,341 15,851
KRW 18.02 19.84
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25845 25845 26205
AUD 16514 16614 17182
CAD 18655 18755 19306
CHF 31423 31453 32350
CNY 0 3579.4 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29371 29471 30243
GBP 34727 34777 35888
HKD 0 3270 0
JPY 178.54 179.54 186.09
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15459 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19843 19973 20706
THB 0 743.1 0
TWD 0 850 0
XAU 11125000 11125000 11725000
XBJ 10800000 10800000 11725000
Cập nhật: 03/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,820 25,870 26,160
USD20 25,820 25,870 26,160
USD1 25,820 25,870 26,160
AUD 16,547 16,697 17,762
EUR 29,388 29,538 30,714
CAD 18,592 18,692 20,010
SGD 19,916 20,066 20,541
JPY 178.82 180.32 185.01
GBP 34,811 34,961 35,741
XAU 11,578,000 0 11,782,000
CNY 0 3,460 0
THB 0 779 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 03/06/2025 00:47