Vay Trung Quốc 300 triệu USD làm cao tốc: Nỗi lo phải trả giá

08:25 | 02/08/2016

2,336 lượt xem
|
Việc dự kiến vay Trung Quốc 300 triệu USD để làm cao tốc diễn ra trong bối cảnh nguồn vốn ODA với lãi suất thấp sẽ kết thúc vào năm 2017, nợ công nguy cơ vượt trần cuối năm nay. Thế nhưng vì sao lại vay Trung Quốc mà không là nguồn khác? Thậm chí là giãn, lùi tiến độ thi công dự án?

Liên quan đến việc Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xem xét lời đề nghị của Trung Quốc về việc vay hơn 300 triệu USD thông qua Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc để thực hiện dự án cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, ông Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, xét bản chất vốn thì “ODA vay của nước nào cũng giống nước nào vì nguồn ODA lãi suất thấp đều kèm theo các điều kiện”.

Nghĩa là vay ODA thì không phân biệt tiền đến từ đâu mà điều quan trọng là phải xử lý, quản lý, sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả để có lợi nhất cho đất nước, tránh trường hợp như dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông hay dự án Xe buýt nhanh Hà Nội.

Ông Kiên cho biết, dự án xe buýt nhanh của Hà Nội có vốn đầu tư tới 11.000 tỷ đồng, gần gấp đôi con số 7.000 tỷ đồng, mà đến thời điểm này đã gần hết thời gian giải ngân nhưng vẫn không chạy được.

Những điều kiện đi kèm khi vay vốn ODA, nhất là ODA Trung Quốc, đó là chỉ định thầu hay mang nhân công sang làm… tất cả những vấn đề này cần được đàm phán kỹ lưỡng và thể hiện rõ các điều khoản cụ thể trên hợp đồng.

tin nhap 20160802082226
Nhiều nỗi lo khi vay và nhận viện trợ Trung Quốc.

Vì sao không lùi thời gian thực hiện dự án?

Khẳng định quan điểm “vay vốn ODA của Trung Quốc hay của nước nào cũng được, miễn là tiền về trong nước và lãi suất thấp hơn vay trong nước” nhưng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng lưu ý, nếu lãi suất thấp nhưng thời gian giải ngân chậm, điều kiện khắt khe, so sánh với vay thương mại trong nước không có lợi hơn thì cần xác định lại.

“Cũng có thể tính đến trường hợp, tại sao không xem xét việc lùi, giãn, hoãn tiến độ, không phải làm trong 2017, 2020 mà làm trong 2021 hoặc 2025 và đấy là một trong những khả năng để chúng ta đàm phán hoặc chúng ta có thể đi vay một khoản của World Bank hoặc ADB, lựa chọn công nghệ và thời điểm vay cho phù hợp”, ông Kiên lưu ý thêm.

Hồi cuối năm 2015, trong chuyến thăm Việt Nam, ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc từng tuyên bố viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm cho Việt Nam, bổ sung khoản vay ưu đãi 250 triệu USD cho dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông.

Tuy nhiên, phát biểu trước Quốc hội khóa XIII, đại biểu Trương Trọng Nghĩa từng khẳng định, “cử tri đề nghị không vay tiền và không nhận viện trợ từ Trung Quốc, ít nhất là trong thời điểm này!”.

Ông Nghĩa phân tích, kinh tế Việt Nam đang có xu hướng ngày một phụ thuộc sâu vào kinh tế Trung Quốc trên hầu hết các lĩnh vực, đe dọa chủ quyền kinh tế. Vị đại biểu cho rằng, nếu trưng cầu ý dân, đa số nhân dân sẽ không đồng ý vì vẫn còn nhiều nguồn cho vay khác.

Liên quan đến kế hoạch 300 triệu USD từ Trung Quốc xây cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, nhiều chuyên gia kinh tế đầu ngành như chuyên gia Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Lưu Bích Hồ… đều phản đối hoặc khuyến nghị thận trọng.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng cho biết, Bộ này đang đề nghị Bộ Tài chính đàm phán lại để thay đổi điều kiện vay thuận lợi hơn, như mức lãi suất vay thấp hơn và bỏ chỉ định thầu cho nhà thầu Trung Quốc. Theo đó, cố gắng phải đấu thầu công khai để tăng hiệu quả của dự án này.

Ngân sách đang chịu áp lực lớn

Việc dự kiến vay Trung Quốc 300 triệu USD để làm cao tốc diễn ra trong bối cảnh nguồn vốn ODA với lãi suất thấp sẽ kết thúc vào năm 2017 và hiện Chính phủ đang hết sức tích cực vận động tiếp cận nguồn vốn ưu đãi trong khi quyết định còn phụ thuộc vào các nhà tài trợ, theo Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh.

Tại một sự kiện gần đây, Phó Thủ tướng cho biết, vốn vay ODA đã chiếm 26% tổng nợ công, 15% GDP và nguồn vốn này ngày càng khan hiếm sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình.

Mặc dù, tổng nhu cầu huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016 - 2020 là rất lớn, khoảng 39,5 tỷ USD, song theo Bộ Tài chính, từ 2017 khi không còn được vay các khoản ODA ưu đãi như trước, Việt Nam sẽ phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay kém ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường.

Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%. Một chuyên gia World Bank từng tính toán, chi trả lãi hiện nay chiếm tới 8% tổng thu của Chính phủ và trên 75% nợ trong nước sẽ đáo hạn trong 3 năm tới. Điều này sẽ gây áp lực lên nợ công.

Trong khi đó, báo cáo Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thừa nhận, do tăng trưởng kinh tế suy giảm, nợ công và nợ Chính phủ dự báo đến cuối năm 2016 có thể vượt trần cho phép.

Hiện mức trần nợ công cho phép là 65% GDP, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát. Trong khi đó, nợ Chính phủ thực tế đã vượt trần 0,3% (ở mức 50,3% GDP).

Bích Diệp

Dân trí

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Hà Nội - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đà Nẵng - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Miền Tây - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Tây Nguyên - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
NL 99.99 14,230 ▲170K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲170K
Trang sức 99.9 14,540 ▲250K 15,140 ▲250K
Trang sức 99.99 14,550 ▲250K 15,150 ▲250K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 ▲25K 15,292 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 ▲25K 15,293 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,485 ▲1339K 151 ▼1334K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,485 ▲1339K 1,511 ▲25K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 147 ▼1298K 150 ▼1325K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,015 ▲129861K 148,515 ▲133911K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,161 ▲1875K 112,661 ▲1875K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,466 ▲170K 10,216 ▲170K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,159 ▲1525K 91,659 ▲1525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,109 ▲1458K 87,609 ▲1458K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,206 ▲1042K 62,706 ▲1042K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cập nhật: 25/11/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16515 16784 17360
CAD 18161 18437 19050
CHF 31961 32342 32990
CNY 0 3470 3830
EUR 29766 30038 31064
GBP 33778 34167 35090
HKD 0 3261 3463
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14486 15073
SGD 19674 19956 20474
THB 730 793 846
USD (1,2) 26112 0 0
USD (5,10,20) 26154 0 0
USD (50,100) 26182 26202 26403
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,002 30,026 31,165
JPY 165.38 165.68 172.62
GBP 34,197 34,290 35,098
AUD 16,814 16,875 17,313
CAD 18,398 18,457 18,982
CHF 32,333 32,434 33,108
SGD 19,853 19,915 20,536
CNY - 3,666 3,764
HKD 3,340 3,350 3,432
KRW 16.59 17.3 18.57
THB 779.85 789.48 839.79
NZD 14,536 14,671 15,015
SEK - 2,722 2,802
DKK - 4,013 4,129
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,982.86 - 6,715.51
TWD 760 - 915.02
SAR - 6,934.15 7,258.5
KWD - 83,749 88,559
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16701 16801 17726
CAD 18344 18444 19457
CHF 32213 32243 33829
CNY 0 3682.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29957 29987 31712
GBP 34087 34137 35890
HKD 0 3390 0
JPY 164.85 165.35 175.89
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14601 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19839 19969 20691
THB 0 759.5 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 25/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,185 26,235 26,403
USD20 26,185 26,235 26,403
USD1 23,889 26,235 26,403
AUD 16,739 16,839 17,961
EUR 30,077 30,077 31,215
CAD 18,277 18,377 19,703
SGD 19,908 20,058 20,632
JPY 165.26 166.76 171.47
GBP 34,154 34,304 35,104
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,560 0
THB 0 796 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 11:00