Vay Trung Quốc 300 triệu USD làm cao tốc: Nỗi lo phải trả giá

08:25 | 02/08/2016

2,334 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việc dự kiến vay Trung Quốc 300 triệu USD để làm cao tốc diễn ra trong bối cảnh nguồn vốn ODA với lãi suất thấp sẽ kết thúc vào năm 2017, nợ công nguy cơ vượt trần cuối năm nay. Thế nhưng vì sao lại vay Trung Quốc mà không là nguồn khác? Thậm chí là giãn, lùi tiến độ thi công dự án?

Liên quan đến việc Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xem xét lời đề nghị của Trung Quốc về việc vay hơn 300 triệu USD thông qua Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc để thực hiện dự án cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, ông Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, xét bản chất vốn thì “ODA vay của nước nào cũng giống nước nào vì nguồn ODA lãi suất thấp đều kèm theo các điều kiện”.

Nghĩa là vay ODA thì không phân biệt tiền đến từ đâu mà điều quan trọng là phải xử lý, quản lý, sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả để có lợi nhất cho đất nước, tránh trường hợp như dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông hay dự án Xe buýt nhanh Hà Nội.

Ông Kiên cho biết, dự án xe buýt nhanh của Hà Nội có vốn đầu tư tới 11.000 tỷ đồng, gần gấp đôi con số 7.000 tỷ đồng, mà đến thời điểm này đã gần hết thời gian giải ngân nhưng vẫn không chạy được.

Những điều kiện đi kèm khi vay vốn ODA, nhất là ODA Trung Quốc, đó là chỉ định thầu hay mang nhân công sang làm… tất cả những vấn đề này cần được đàm phán kỹ lưỡng và thể hiện rõ các điều khoản cụ thể trên hợp đồng.

tin nhap 20160802082226
Nhiều nỗi lo khi vay và nhận viện trợ Trung Quốc.

Vì sao không lùi thời gian thực hiện dự án?

Khẳng định quan điểm “vay vốn ODA của Trung Quốc hay của nước nào cũng được, miễn là tiền về trong nước và lãi suất thấp hơn vay trong nước” nhưng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng lưu ý, nếu lãi suất thấp nhưng thời gian giải ngân chậm, điều kiện khắt khe, so sánh với vay thương mại trong nước không có lợi hơn thì cần xác định lại.

“Cũng có thể tính đến trường hợp, tại sao không xem xét việc lùi, giãn, hoãn tiến độ, không phải làm trong 2017, 2020 mà làm trong 2021 hoặc 2025 và đấy là một trong những khả năng để chúng ta đàm phán hoặc chúng ta có thể đi vay một khoản của World Bank hoặc ADB, lựa chọn công nghệ và thời điểm vay cho phù hợp”, ông Kiên lưu ý thêm.

Hồi cuối năm 2015, trong chuyến thăm Việt Nam, ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc từng tuyên bố viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm cho Việt Nam, bổ sung khoản vay ưu đãi 250 triệu USD cho dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông.

Tuy nhiên, phát biểu trước Quốc hội khóa XIII, đại biểu Trương Trọng Nghĩa từng khẳng định, “cử tri đề nghị không vay tiền và không nhận viện trợ từ Trung Quốc, ít nhất là trong thời điểm này!”.

Ông Nghĩa phân tích, kinh tế Việt Nam đang có xu hướng ngày một phụ thuộc sâu vào kinh tế Trung Quốc trên hầu hết các lĩnh vực, đe dọa chủ quyền kinh tế. Vị đại biểu cho rằng, nếu trưng cầu ý dân, đa số nhân dân sẽ không đồng ý vì vẫn còn nhiều nguồn cho vay khác.

Liên quan đến kế hoạch 300 triệu USD từ Trung Quốc xây cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, nhiều chuyên gia kinh tế đầu ngành như chuyên gia Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Lưu Bích Hồ… đều phản đối hoặc khuyến nghị thận trọng.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng cho biết, Bộ này đang đề nghị Bộ Tài chính đàm phán lại để thay đổi điều kiện vay thuận lợi hơn, như mức lãi suất vay thấp hơn và bỏ chỉ định thầu cho nhà thầu Trung Quốc. Theo đó, cố gắng phải đấu thầu công khai để tăng hiệu quả của dự án này.

Ngân sách đang chịu áp lực lớn

Việc dự kiến vay Trung Quốc 300 triệu USD để làm cao tốc diễn ra trong bối cảnh nguồn vốn ODA với lãi suất thấp sẽ kết thúc vào năm 2017 và hiện Chính phủ đang hết sức tích cực vận động tiếp cận nguồn vốn ưu đãi trong khi quyết định còn phụ thuộc vào các nhà tài trợ, theo Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh.

Tại một sự kiện gần đây, Phó Thủ tướng cho biết, vốn vay ODA đã chiếm 26% tổng nợ công, 15% GDP và nguồn vốn này ngày càng khan hiếm sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình.

Mặc dù, tổng nhu cầu huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016 - 2020 là rất lớn, khoảng 39,5 tỷ USD, song theo Bộ Tài chính, từ 2017 khi không còn được vay các khoản ODA ưu đãi như trước, Việt Nam sẽ phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay kém ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường.

Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%. Một chuyên gia World Bank từng tính toán, chi trả lãi hiện nay chiếm tới 8% tổng thu của Chính phủ và trên 75% nợ trong nước sẽ đáo hạn trong 3 năm tới. Điều này sẽ gây áp lực lên nợ công.

Trong khi đó, báo cáo Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thừa nhận, do tăng trưởng kinh tế suy giảm, nợ công và nợ Chính phủ dự báo đến cuối năm 2016 có thể vượt trần cho phép.

Hiện mức trần nợ công cho phép là 65% GDP, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát. Trong khi đó, nợ Chính phủ thực tế đã vượt trần 0,3% (ở mức 50,3% GDP).

Bích Diệp

Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,200 122,200
AVPL/SJC HCM 120,200 122,200
AVPL/SJC ĐN 120,200 122,200
Nguyên liệu 9999 - HN 11,530 11,710
Nguyên liệu 999 - HN 11,520 11,700
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 115.000 118.000
TPHCM - SJC 120.200 122.200
Hà Nội - PNJ 115.000 118.000
Hà Nội - SJC 120.200 122.200
Đà Nẵng - PNJ 115.000 118.000
Đà Nẵng - SJC 120.200 122.200
Miền Tây - PNJ 115.000 118.000
Miền Tây - SJC 120.200 122.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 115.000 118.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.200 122.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.200 122.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 115.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 115.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 115.000 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.880 117.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 114.160 116.660
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.930 116.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.780 88.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.390 68.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.530 49.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 105.230 107.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.330 71.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 69.030 76.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.550 80.050
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.710 44.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.430 38.930
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,320 11,820
Trang sức 99.9 11,310 11,810
NL 99.99 11,150
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,150
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,550 11,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,550 11,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,550 11,850
Miếng SJC Thái Bình 12,020 12,220
Miếng SJC Nghệ An 12,020 12,220
Miếng SJC Hà Nội 12,020 12,220
Cập nhật: 07/05/2025 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16223 16490 17069
CAD 18258 18534 19150
CHF 30802 31179 31826
CNY 0 3358 3600
EUR 28758 29026 30056
GBP 33809 34198 35134
HKD 0 3220 3422
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15202 15785
SGD 19589 19870 20387
THB 710 773 827
USD (1,2) 25706 0 0
USD (5,10,20) 25745 0 0
USD (50,100) 25773 25807 26149
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 34,171 34,264 35,173
HKD 3,291 3,301 3,401
CHF 31,094 31,191 32,063
JPY 178.02 178.34 186.34
THB 758.62 767.99 822.46
AUD 16,539 16,599 17,042
CAD 18,548 18,608 19,111
SGD 19,814 19,875 20,496
SEK - 2,647 2,743
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,882 4,016
NOK - 2,457 2,544
CNY - 3,561 3,658
RUB - - -
NZD 15,217 15,358 15,804
KRW 17.49 - 19.6
EUR 29,013 29,036 30,274
TWD 782.03 - 946.17
MYR 5,752.95 - 6,489.89
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,475 87,694
XAU - - -
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,692 28,807 29,913
GBP 33,802 33,938 34,908
HKD 3,282 3,295 3,402
CHF 30,888 31,012 31,912
JPY 175.80 176.51 183.79
AUD 16,406 16,472 17,003
SGD 19,692 19,771 20,312
THB 766 769 803
CAD 18,420 18,494 19,010
NZD 15,179 15,688
KRW 18.01 19.89
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16390 16490 17057
CAD 18431 18531 19085
CHF 31038 31068 31954
CNY 0 3562.2 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 29032 29132 29905
GBP 34093 34143 35254
HKD 0 3355 0
JPY 177.76 178.76 185.27
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15301 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19735 19865 20596
THB 0 739.8 0
TWD 0 845 0
XAU 12020000 12020000 12220000
XBJ 11000000 11000000 12220000
Cập nhật: 07/05/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,790 25,840 26,170
USD20 25,790 25,840 26,170
USD1 25,790 25,840 26,170
AUD 16,473 16,623 17,691
EUR 29,146 29,296 30,506
CAD 18,395 18,495 19,814
SGD 19,798 19,948 20,808
JPY 178.2 179.7 184.4
GBP 34,194 34,344 35,124
XAU 12,078,000 0 12,282,000
CNY 0 3,449 0
THB 0 773 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/05/2025 04:00