Tương lai của giá dầu: 100+ hay 50-?

11:00 | 21/06/2021

1,572 lượt xem
|
(PetroTimes) - Tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về hàng hóa do hãng tin Financial Times tổ chức, lãnh đạo các nhà kinh doanh hàng hóa lớn bày tỏ lo ngại về việc thiếu hụt đầu tư vào phát triển các mỏ dầu mới. Các nhà kinh doanh cho rằng, bất chấp sự phát triển của năng lượng xanh, nhu cầu về dầu mỏ sẽ tiếp tục tăng trong thập kỷ tới.

Việc thiếu các khoản đầu tư cần thiết có nguy cơ gây sụt giảm mạnh nguồn cung, đẩy giá cầu có thể tăng lên 100 USD/thùng. Phần lớn sẽ phụ thuộc vào động thái OPEC+, liên minh có năng lực sản xuất dầu lớn nhất và có thể ngăn chặn đà tăng đáng kể của giá dầu trong năm nay.

Tương lai của giá dầu: 100+ hay 50-?

OPEC chưa tiết lộ quân bài của mình

Trong khuôn khổ hội nghị, Tổng giám đốc điều hành Vitol Russell Hardy nhận định, giá dầu sẽ ở trong khoảng 70-80 USD/thùng cho đến cuối năm 2021. Ông Hardy cho rằng, tình hình thị trường dầu mỏ trong những tháng tới sẽ rất hấp dẫn khi OPEC vẫn chưa tiết lộ quân bài của mình, đồng thời thị trường đang chờ đợi những tin tức từ Iran. Những người chơi trên thị trường, chủ yếu là các nhà giao dịch hàng hóa đang kỳ vọng các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Iran về sửa đổi thỏa thuận hạt nhân Iran sẽ được hoàn tất trong tương lai gần. Theo thỏa thuận này, Iran sẽ cho phép cộng đồng quốc tế kiểm soát chương trình hạt nhân của mình để đối lấy việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt của Mỹ.

Theo ông Hardy, nếu các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ, Iran có thể tăng đáng kể nguồn cung dầu cho thị trường quốc tế trong tháng 9-11 tới. Các hạn chế khai thác dầu thô trong khuôn khổ OPEC+ hiện tại có hiệu lực đến hết tháng 7/2021. Sau đó, liên minh này sẽ phải đưa ra các quyết định nhằm ổn định nguồn cung dầu thô ra thị trường. OPEC+ muốn giữ tình hình trong tầm kiểm soát để quá trình tăng sản lượng diễn ra dần dần và thị trường nhìn nhận điều này một cách tích cực. Tính kỷ luật trong OPEC+ khá cao và khả năng ảnh hưởng đến thị trường của liên minh này sẽ hỗ trợ giá dầu. Giá dầu có thể tăng lên 100 USD/thùng, nhưng kịch bản như vậy khó xảy ra trong tương lai gần do công suất sản xuất dự trữ toàn cầu đang ở mức 5,5 triệu thùng/ngày. Giá dầu ở mức cao như hiện nay chủ yếu xuất phát từ chính sách kiềm chế sản lượng của OPEC+, nhu cầu tiêu thụ phục hồi và dự trữ dầu thô giảm ở các nước phát triển.

Người đứng đầu Total cũng cho biết, hiện chưa thể nói về sự bắt đầu một “siêu chu kỳ” vì tình hình thị trường dầu mỏ đang được kiểm soát, không giống như tình hình năm 2008. Vitol kỳ vọng nhu cầu dầu toàn cầu sẽ phục hồi hoàn toàn vào nửa cuối năm 2022. Đồng thời, nhu cầu tiêu thụ xăng sẽ phục hồi trong quý IV năm nay và tiêu thụ các sản phẩm hóa dầu sẽ vượt mức trước đại dịch. Chỉ có nhu cầu về nhiên liệu máy bay là chưa thể phục hồi và vẫn duy trì ở mức rất thấp. Hãng cũng dự báo, nhu cầu dầu mỏ sẽ tiếp tục tăng cho đến năm 2030, sau đó sẽ ổn định trong thập kỷ tiếp theo và sự sụt giảm đáng kể nhu cầu dầu sẽ bắt đầu sau năm 2040. Vitol cũng cảnh báo về nguy cơ sụt giảm nguồn cung quy mô lớn trong giai đoạn 2025 - 2035.

Đối với Vitol, hãng sẽ tiếp tục đầu tư vào các tài sản thượng nguồn song song với đầu tư vào lĩnh vực NLTT. Tập đoàn này dự kiến sở hữu giấy cấp phép khai thác dầu tại lưu vực Permian - trung tâm sản xuất hơn 40% sản lượng dầu của Mỹ, thông qua công ty con Vencer Energy. Tuy nhiên, hãng khá thận trọng về khả năng khôi phục toàn bộ sản lượng dầu đá phiến tại Mỹ về mức kỷ lục trong năm 2019. Sẽ không xảy ra “cơn sốt” khai thác dầu đá phiến như đã từng xảy trong giai đoạn 2017 - 2018.

Trên 100 USD/thùng hoặc dưới 50 USD/thùng?

Lãnh đạo của tập đoàn Trafigura Jeremy Weir cho biết, thiếu hụt đầu tư vào sản xuất dầu khí có thể khiến giá dầu tăng lên tới 100 USD/thùng. Điều này có thể xảy ra trước khi nhu cầu dầu mỏ đạt đỉnh. Ông Weir cảnh báo, tình hình nguồn cung đang rất báo động. Trữ lượng dự trữ đã thăm dò giảm từ 15 năm xuống còn 10 năm. Trong vòng 5-6 năm qua, đầu tư vào sản xuất dầu hàng năm đã giảm từ 400 tỷ USD/năm xuống còn hơn 100 tỷ USD/năm. Việc thiếu đầu tư vào sản xuất có thể khiến giá dầu tăng hơn nữa.

Giám đốc điều hành công ty hàng hóa Mercuria Marco Dunand nhận định, giá dầu sẽ duy trì ở mức 70 USD/thùng trong một thời gian và tình hình sẽ thay đổi khi OPEC+ quyết định nới lỏng sản lượng. Ông Dunand cho rằng, OPEC+ sẽ tăng sản lượng nếu giá dầu vượt quá 75 USD/thùng nhằm ngăn chặn sự gia tăng sản lượng dầu đá phiến. Nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu sẽ vượt quá 100 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2021 so với mức 95 triệu thùng/ngày hiện nay. Đến cuối cùng, công suất khai thác dầu dự trữ của thế giới sẽ tăng lên 6 triệu thùng/ngày (chưa tính đến sản lượng từ Iran và Venezuela).

Ông Dunand cũng dự báo rằng, sản lượng khai thác dầu đá phiến của Mỹ trong năm nay sẽ tăng 300.000 thùng/ngày và tăng thêm 1 triệu thùng/ngày vào năm 2022. Thị trường hoàn toàn có thể hấp thụ sản lượng khai thác bổ sung này. Có nhiều kịch bản khác nhau cho sự phát triển của giá dầu trên cơ sở những sự kiện trên thị trường dầu mỏ. Theo đó, giá dầu có thể tăng lên tới 100 USD/thùng hoặc ngược lại, giảm xuống dưới 50 USD/thùng. Ngoài ra, các quyết định chính trị có thể tác động mạnh đến thị trường dầu mỏ. Những quyết định như vậy có thể được đưa ra tại Hội nghị về biến đổi khí hậu (COP26), sẽ được tổ chức vào tháng 11 tới đây.

Tiến Thắng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 142,500 145,500
Hà Nội - PNJ 142,500 145,500
Đà Nẵng - PNJ 142,500 145,500
Miền Tây - PNJ 142,500 145,500
Tây Nguyên - PNJ 142,500 145,500
Đông Nam Bộ - PNJ 142,500 145,500
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,230 14,600
Trang sức 99.9 14,220 14,590
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,380 14,610
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,380 14,610
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,380 14,610
Miếng SJC Thái Bình 14,410 14,610
Miếng SJC Nghệ An 14,410 14,610
Miếng SJC Hà Nội 14,410 14,610
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,441 14,612
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,441 14,613
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,423 1,445
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,423 1,446
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 140 143
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 137,084 141,584
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 99,911 107,411
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 899 974
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 79,889 87,389
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,027 83,527
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,287 59,787
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 1,461
Cập nhật: 15/10/2025 01:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16444 16712 17290
CAD 18193 18469 19085
CHF 32128 32510 33161
CNY 0 3470 3830
EUR 29814 30086 31114
GBP 34139 34529 35474
HKD 0 3259 3461
JPY 166 170 176
KRW 0 17 19
NZD 0 14667 15250
SGD 19706 19988 20514
THB 719 782 835
USD (1,2) 26087 0 0
USD (5,10,20) 26129 0 0
USD (50,100) 26157 26192 26369
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,101 30,125 31,245
JPY 170.5 170.81 177.84
GBP 34,626 34,720 35,511
AUD 16,797 16,858 17,285
CAD 18,459 18,518 19,030
CHF 32,525 32,626 33,284
SGD 19,911 19,973 20,580
CNY - 3,646 3,740
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.05 17.78 19.07
THB 770.71 780.23 829.32
NZD 14,716 14,853 15,189
SEK - 2,725 2,806
DKK - 4,027 4,140
NOK - 2,562 2,638
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,847.43 - 6,553.65
TWD 775.84 - 933.41
SAR - 6,931.8 7,250.59
KWD - 83,851 88,599
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 29,889 30,009 31,089
GBP 34,535 34,674 35,609
HKD 3,323 3,336 3,438
CHF 32,189 32,318 33,188
JPY 169.17 169.85 176.61
AUD 16,832 16,900 17,417
SGD 19,952 20,032 20,541
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,833 15,311
KRW 17.73 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16638 16738 17351
CAD 18381 18481 19082
CHF 32366 32396 33270
CNY 0 3655.6 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30002 30032 31055
GBP 34461 34511 35619
HKD 0 3390 0
JPY 169.74 170.24 177.26
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14782 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19867 19997 20736
THB 0 748.2 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14410000 14410000 14610000
SBJ 14000000 14000000 14610000
Cập nhật: 15/10/2025 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,183 26,233 26,369
USD20 26,183 26,233 26,369
USD1 26,183 26,233 26,369
AUD 16,822 16,922 18,032
EUR 30,219 30,219 31,531
CAD 18,366 18,466 19,777
SGD 19,993 20,143 21,155
JPY 170.22 171.72 176.29
GBP 34,773 34,923 35,695
XAU 14,488,000 0 14,642,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 01:45