Túi tiền của người dân đang bị "bóp nghẹt" như thế nào?

07:33 | 19/08/2012

2,535 lượt xem
|
(Petrotimes) - Tổng thu nhập hàng tháng không hề tăng nhưng các khoản chi cho việc học hành của con cái, sinh hoạt thường nhật của các gia đình lại tăng lên đáng kể.

Giá hàng hoá cứ tăng trong khi thu nhập người dân không thay đổi.

Mỗi đợt tăng giá xăng, điện hay gas đồng nghĩa là sẽ có một loạt các mặt hàng khác trực chờ đòi tăng giá theo đã là chuyện quá đỗi quen thuộc với người dân. Nhưng đồng loạt cả 3 mặt hàng được liệt vào danh sách “mặt hàng đặc biệt” này cùng tăng thì có lẽ đây mới chỉ là lần đầu. Mặc dù đại diện các cơ quan chức năng đã nhiều lần lên tiếng khẳng định tác động điều chỉnh tăng giá các mặt hàng trên đã được tính toán và sẽ không có nhiều tác động đến đời sống sinh hoạt của người dân nhưng cũng chẳng có ai tin vào điều đó. Và thực tế, cuộc sống của người dân, đặc biệt là những gia đình công nhân viên chức, những công nhân trong các khu chế xuất, khu công nghiệp đang gặp vô vàn khó khăn.

Việc Bộ Tài chính mới đây đưa ra đề xuất nâng mức khởi điểm phải đóng thuế thu nhập cá nhân lên 9 triệu đồng có thể xem là một động thái “biết lắng nghe”, “biết thấu hiểu” của các nhà hoạch định chính sách. Nhưng đằng sau đề xuất này có thể thấy rằng, với mặt bằng giá cả như hiện nay, thu nhập 6 triệu/tháng của một gia đình cũng chỉ có thể gọi là đủ sống mà thôi. Và điều này đã được TS Nguyễn Minh Phong khẳng định, vào thời điểm hiện tại, thu nhập của một gia đình với 4 thành viên phải ở mức 15 triệu thì mới có thể gọi là đủ sống ở Hà Nội.

Nhận định này cho thấy, mặt bằng giá cả đã tăng lên khá nhiều đã đẩy các khoản chi phí thường ngày của các hộ gia đình lên rất cao và nếu dùng một phép toán so sánh thì có thể thấy, với mẫu số chung là tổng thu nhập của một gia đình thì tử số của phép chia đó đã thay đổi, nó đã lớn lên và phình to hơn rất nhiều. Và tất nhiên, để tạo được sự cân bằng và đảm bảo ở mức đủ sống, mỗi gia đình sẽ phải tự lên phương án tiết giảm tối đa chi phí để đưa tử số đó về con số có thể chấp nhận được.

Ví dụ, một gia đình có tổng thu nhập bình quân là 10 triệu đồng/tháng, nếu như trước kia, khi giá các mặt hàng tiêu dùng chưa tăng thì 1 tháng họ sẽ chi tiêu hết 8 triệu đồng/tháng. Như vậy, mỗi tháng gia đình đó sẽ tích cóp được 2 triệu đồng. Nhưng giờ đây, khi tổng thu nhập của các gia đình vẫn là 10 triệu đồng và nếu vẫn giữ nguyên các khoản chi phí hàng tháng thì họ sẽ phải chi ra tới 12 triệu đồng (tức là gấp rưỡi so với trước thời điểm biến động giá).

Từ đó để thấy rằng, sức ép kinh tế đang khiến nhiều gia đình đang phải rất đau đầu. Bài toán làm sao đưa mức chi phí 12 triệu xuống một con số chấp nhận được không hề đơn giản.

Chị Nguyễn Thị Hiền (ngõ 79 Đội Cấn, Hà Nội) thẳng thắn chia sẻ: Vợ chồng tôi đều là cán bộ, viên chức nhà nước, tổng thu nhập của mỗi tháng cũng chỉ được trên dưới 10 triệu đồng tháng. Nếu như trước kia, có ăn tiêu dè dặt, mỗi tháng cố lắm cũng để ra được vài ba triệu đồng nhưng giờ thì chịu. Thu nhập của gia đình vẫn thế mà giá cả thì cứ mỗi ngày một tăng. Bữa cơm gia đình có đạm bạc thì cũng mất tối thiểu 120.000 rồi. Lại còn chuyện học hành của con cái nữa, đau đầu lắm.

“Cuộc sống bay giờ khắc nghiệt thật, cái gì cũng tiền mà tiền thì mình có nhặt được đâu. Học phí cũng đòi tăng, sữa cho con uống cũng tăng, mớ rau ngoài chợ cũng tăng, ngoài ra lại còn tiền điện, tiền nước, tiền truyền hình, tiền gas,… cũng tăng. Cùng cực lắm em ạ!”, chị Hiền tâm sự.

Tháng nào cũng vậy, khi tiền lương còn chưa kịp lĩnh về, vợ chồng chị lại phải ngồi với nhau để mà nhẩm tính. Nào thì khoản này để riêng đóng học cho con, khoản này thì để mua quần áo, sách vở, khoản này thì mua sữa cho đứa nhỏ,… và tất nhiên, sau khi trừ đi tất cả các khoản “không thể không chi”, còn lại bao nhiều vợ chồng chi lại phải ngồi tính toán cho các chi phí thường ngày như ăn uống, tiêu pha hàng ngày của gia đình. Tháng nào mà khoản này xúng xính một chút thì bữa cơm gia đình còn có chút “dinh dưỡng”, còn không thì hai vợ chồng chị chỉ còn biết cách “nhịn ăn nhịn tiêu” đến mức tối đa để lo cho con cái được đầy đủ mà thôi.

“Nói nghe thật lạ, công chức viên chức bây giờ nhiều khi cũng phải rau cháo như ai đấy chú ạ. Tính toán không cẩn thận thì chỉ có chết đói thôi”, chị Hiền hài hước nói.

Câu chuyện của chị Hiền nghe có vẻ thật lạ nhưng không phải không có ở nhiều gia đình đang sống ở Hà Nội. Thử hỏi, đồng lương công chức giờ được bao nhiêu, trong khi giá cả thì cứ kéo nhau tăng lên vùn vụt mỗi ngày. Đã vậy, đợt tăng giá này lại rơi vào thời điểm vô cùng “nhạy cảm” càng khiến những khó khăn mà người dân gặp phải tăng lên gấp bội.

Chẳng đâu xa, ngay như gia đình chị Hiền, chưa biết chuyện học thêm, học ngoài giờ của con cái sẽ như thế nào nhưng chỉ nhìn sơ sơ nhưng việc cần có và phải chuẩn bị ngay cho 2 đứa con vào năm học mới có lẽ đã ngốn hết tổng thu nhập của hai vợ chồng trong tháng rồi. Theo những gì chị chia sẻ, thì sau khi tổng hợp những khoản chi cho hai đứa con trước thềm năm học mới đã hết tới 6 – 7 triệu đồng. Vậy thử hỏi, với khoản tiền 3 – 4 triệu còn lại, gia đình chị sẽ sống như thế nào. Tiền ăn uống, tiền xăng xe,…., cái gì cũng cao, cái gì cũng tăng cả rồi.

Cuộc sống của người công nhân đang trong cảnh khốn khó vô cùng.

Nhưng khó khăn của gia đình chị Hiền lại chưa phải tất cả, lại chưa phải cùng cực nhất, vào thời điểm này, khốn khổ nhất lại là công nhân hiện đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Doanh nghiệp đang trong giai đoạn khó khăn nhất từ trước đến nay, sản xuất đình trệ, hàng hoá làm ra không bán được và tất nhiên, kèm theo đó sẽ là khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng sụt giảm rất nhiều.

Doanh nghiệp khó khăn cũng đồng nghĩa với đồng lương trả cho công nhân sẽ khó khăn. Sản xuất đình trì, hàng hoá ế ẩm khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải cho công nhân tạm nghỉ việc và hưởng một phần lương hàng tháng.

Trần Tuấn Anh – công nhân của một công ty sản xuất ở Từ Liêm nói: Cuộc sống của người công nhân giờ khổ lắm. Lương đã thấp nhưng giờ lại còn không được lĩnh đủ vì công ty không có việc. Lao động thời vụ thì buộc phải nghỉ việc gần hết, còn những người còn lại phải chấp nhận làm việc cầm chừng, không tăng ca với mức lương chỉ bằng 75 – 85% lương được hưởng hàng tháng.

“Lương thì giảm và việc làm cũng vô cùng khan hiếm nên giới công nhân cũng chẳng biết tìm đâu ra việc làm thêm, tăng thu nhập cả. Tiền nhà thì cũng đòi tăng theo giá xăng, giá điện. Và để bù đắp lại những điều đó, chi phí tiêu dùng hàng đã phải giảm xuống tối đa”, Tuấn Anh tâm sự.

Qua những câu chuyện trên có thể thấy rằng, trong khi Nhà nước đang tìm mọi cách khơi thông dòng chảy trong hoạt động sản xuất kinh doanh và vấn đề mấu chốt là khả năng tiêu dùng của người dân thì động thái tăng giá xăng dầu, điện, gas gần đây đang gây ra nhiều phản ứng tiêu cực. Người dân thu nhập thấp cũng đồng nghĩa với việc khả năng tiêu dùng sẽ bị hạn chế. Khi thu nhập giảm, chi phí tiêu dùng tăng thì họ sẽ buộc phải thắt chặt hầu bao và chấp nhận cắt giảm đi tất cả các khoản chi phí không cần thiết.

Áp lực thu nhập thấp và gánh nặng giá cả đang khiến hầu bao của người dân có nguy cơ thủng đáy.

Thanh Ngọc

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,700 15,000
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,700 15,000
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,700 15,000
NL 99.99 14,060
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,060
Trang sức 99.9 14,290 14,890
Trang sức 99.99 14,300 14,900
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 25/11/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16479 16747 17323
CAD 18162 18438 19051
CHF 32030 32412 33059
CNY 0 3470 3830
EUR 29788 30061 31089
GBP 33734 34123 35057
HKD 0 3258 3460
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14463 15048
SGD 19669 19950 20470
THB 727 790 843
USD (1,2) 26113 0 0
USD (5,10,20) 26155 0 0
USD (50,100) 26183 26203 26401
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,181 26,181 26,401
USD(1-2-5) 25,134 - -
USD(10-20) 25,134 - -
EUR 29,945 29,969 31,106
JPY 165.17 165.47 172.4
GBP 34,125 34,217 35,012
AUD 16,773 16,834 17,268
CAD 18,398 18,457 18,980
CHF 32,301 32,401 33,063
SGD 19,785 19,847 20,461
CNY - 3,661 3,758
HKD 3,336 3,346 3,428
KRW 16.57 17.28 18.55
THB 775.66 785.24 835.28
NZD 14,496 14,631 14,977
SEK - 2,722 2,801
DKK - 4,005 4,121
NOK - 2,534 2,608
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,962.44 - 6,687.75
TWD 759.69 - 914.07
SAR - 6,929.24 7,253.41
KWD - 83,686 88,492
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,181 26,401
EUR 29,755 29,874 31,004
GBP 33,885 34,021 34,988
HKD 3,319 3,332 3,440
CHF 32,009 32,138 33,025
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,674 16,741 17,277
SGD 19,803 19,883 20,420
THB 790 793 828
CAD 18,358 18,432 18,965
NZD 14,525 15,032
KRW 17.18 18.76
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26109 26109 26401
AUD 16650 16750 17683
CAD 18344 18444 19455
CHF 32270 32300 33886
CNY 0 3676.8 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29962 29992 31717
GBP 34025 34075 35843
HKD 0 3390 0
JPY 164.76 165.26 175.8
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14565 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19824 19954 20676
THB 0 757 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14840000 14840000 15040000
SBJ 13000000 13000000 15040000
Cập nhật: 25/11/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,401
USD20 26,190 26,240 26,401
USD1 26,190 26,240 26,401
AUD 16,726 16,826 17,942
EUR 30,059 30,059 31,171
CAD 18,299 18,399 19,706
SGD 19,861 20,011 20,574
JPY 165.28 166.78 172
GBP 34,116 34,266 35,047
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 06:00