Tin tức kinh tế ngày 3/9: OPEC+ dự kiến tăng sản lượng dầu trong năm 2022

21:00 | 03/09/2021

144 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mỹ đề nghị điều tra chống bán phá giá với pin năng lượng mặt trời Việt Nam; Vinamilk tăng trưởng ổn định giữa đại dịch; OPEC+ dự kiến tăng sản lượng dầu trong năm 2022; Doanh nghiệp chăn nuôi thiếu hụt lao động do khó tiếp cận vaccine; Xe nhập khẩu về Việt Nam trong tháng 8 sụt giảm mạnh... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 3/9.

Mỹ đề nghị điều tra chống bán phá giá với pin năng lượng mặt trời Việt Nam

Theo đó, một số sản phẩm bị đề nghị điều tra là nhóm các sản phẩm pin năng lượng mặt trời có mã HS 8501.61.0010, 8507.20.80, 8541.40.6015, 8541.40.6025, và 8501.31.8010 (theo hệ thống hồ sơ của Mỹ). Hiện mặt hàng pin năng lượng mặt trời của Trung Quốc đang bị Mỹ áp thuế chống bán phá gia từ 15,85% đến 238,95% và thuế chống trợ cấp từ 11,97% đến 15,24%.

Theo cáo buộc của nguyên đơn, các doanh nghiệp tại Việt Nam, Malaysia và Thái Lan nhập khẩu tế bào và mô-đun quang điện silicon từ Trung Quốc để sản xuất pin năng lượng mặt trời xuất khẩu sang Mỹ. Nguyên đơn cho rằng, hoạt động sản xuất này không tạo ra giá trị gia tăng đáng kể và cần được xem là hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại mà Mỹ đang áp dụng đối với Trung Quốc.

Vinamilk tăng trưởng ổn định giữa đại dịch

Theo chương trình đánh giá “Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” 2020 của Bộ Công Thương mới đây, Vinamilk tiếp tục được công nhận ở lĩnh vực xuất khẩu của ngành sữa. Đây cũng là lần thứ 5 Vinamilk góp mặt trong danh sách này, cho thấy những đóng góp tích cực của doanh nghiêp trong việc phát triển xuất khẩu chung của toàn ngành. Trước đó, Vinamilk cũng góp mặt trong giải thưởng Doanh nghiệp Xuất khẩu Châu Á (The Asian Export Awards), với thành công của sản phẩm sữa đặc trên thị trường quốc tế. 6 tháng đầu năm 2021, giữa bối cảnh đại dịch Covid-19 một lần nữa khiến nền kinh tế lao đao, hoạt động xuất khẩu của Vinamilk gây ấn tượng mạnh mẽ khi tăng trưởng 2 con số, đạt 2.772 tỷ đồng.

OPEC+ dự kiến tăng sản lượng dầu trong năm 2022

Tính đến đầu giờ sáng nay (theo giờ Việt Nam), giá dầu thô Mỹ WTI giao dịch ở ngưỡng 69,73 USD/thùng - giảm 0,37%, trong khi giá dầu Brent dừng lại ở mức 73,03 USD/thùng - tăng 2,01%. Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh (OPEC+) mới đây đã đồng ý tuân theo chính sách đạt được vào tháng 7 là loại bỏ dần thỏa thuận giảm sản lượng kỷ lục bằng cách đưa thêm 400.000 thùng/ngày trở lại thị trường hàng tháng.

Nhóm các nhà sản xuất dầu cũng đã điều chỉnh lại triển vọng nhu cầu năm 2022 và đối mặt với áp lực từ Mỹ nhằm tăng sản lượng nhanh hơn. Cụ thể, OPEC+ điều chỉnh dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2022 lên 4,2 triệu thùng/ngày, tăng so với mức 3,28 triệu thùng/ngày trước đó, và dự kiến lập kế hoạch tăng thêm sản lượng trong tương lai.

Hiệp hội nhựa "kêu cứu" lên Chính phủ

Hiệp hội nhựa Việt Nam (VPA) đã có văn bản gửi đến Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đề xuất các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhựa vượt qua khó khăn. Trong đó, đề xuất hỗ trợ giãn nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp trong 6 tháng tới cho các khoản vay ngắn hạn và dài hạn; giảm tiếp 2% - 3% lãi suất cho vay đối với những doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng bởi Covid-19...

Chủ tịch VPA, cho biết ngành nhựa có hơn 3.000 doanh nghiệp với hơn 300.000 lao động trên cả nước, trong đó 70% doanh nghiệp hoạt động tập trung tại TP.HCM và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tây Ninh. Diễn biến tình hình dịch Covid-19 phức tạp đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong ngành lâm vào cảnh điêu đứng. Hiện nay, hơn 50% doanh nghiệp nhựa đã phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng do không đáp ứng được phương án “3 tại chỗ” hoặc phương án “2 điểm đến 1 cung đường”. Và điều này tất yếu dẫn đến nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ không thực hiện được đơn hàng, giao hàng chậm hoặc bị hủy đơn hàng. Dự báo, tình hình những tháng cuối năm của ngành này cực kỳ khó khăn.

Doanh nghiệp chăn nuôi thiếu hụt lao động do khó tiếp cận vaccine

Tại Hội nghị sản xuất chăn nuôi, cung - cầu thực phẩm các tháng cuối năm 2021 do Bộ NN&PTNT tổ chức mới đây, đại diện nhiều doanh nghiệp chăn nuôi cho biết đang nặng, sức mua thị trường giảm dẫn tới nguy cơ ngừng tái đàn dẫn đến nguồn cung thiếu hụt. Ông Vũ Anh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Công ty CP Chăn nuôi CP Việt Nam cho biết thời gian qua, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; giá đầu ra sản phẩm chăn nuôi giảm; thu nhập của người nông dân trong chuỗi liên kết bị ảnh hưởng. "Duy trì hoạt động là vấn đề sống còn của các cơ sở sản xuất," ông Vũ Anh Tuấn cho biết và kiến nghị Bộ NN&PTNT và Sở NN&PTNT của nhiều tỉnh tác động để doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vaccine, nhất là vacine cho lao động sản xuất và đội ngũ tài xế giao hàng.

Xe nhập khẩu về Việt Nam trong tháng 8 sụt giảm mạnh

Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Hải quan, lượng xe nhập về Việt Nam trong tháng 8 chỉ đạt 7.300 chiếc, giảm 49,3% so với tháng trước. Nguyên nhân được chỉ ra là do đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp khiến các chuyến hàng không về được đúng hẹn. Trong khi đó, các hợp đồng ký mới bị đình hoãn do dịch bệnh và nhu cầu xe xuống mức rất thấp do tháng 8 dương trùng với thời điểm tháng cô hồn, quan niệm dân gian nhiều người kiêng mua xe, nhà cửa.

Giá vàng vẫn trụ vững trên mốc 1.800 USD/ounce

Sáng nay (3/9), giá vàng SJC tại Hà Nội được niêm yết ở 56,5 - 57,5 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), tại TPHCM là 56,7 - 57,4 triệu đồng/lượng. Trên thế giới, lúc 7h sáng nay (giờ Việt Nam), giá vàng giao ngay qua niêm yết của Kitco.com giảm nhẹ 0,5 USD, được giao dịch ở 1.809 USD/ounce.

Trong bối cảnh này, giá vàng được dự báo sẽ còn đảo chiều và đi lên. Ông John Paulson, Chủ tịch kiêm Giám đốc danh mục đầu tư tại Paulson & Co và Mark Mobius, người sáng lập Mobius Capital Partners, nhận định cho rằng vàng sẽ tăng giá. Qua đó ông cho biết thích vàng hơn bitcoin và kim loại quý này có vẻ hấp dẫn trong môi trường lạm phát hiện nay.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC HCM 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC ĐN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
TPHCM - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Hà Nội - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Hà Nội - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Đà Nẵng - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Đà Nẵng - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Miền Tây - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Miền Tây - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼800K 113.000 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼800K 112.890 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼790K 112.200 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼790K 111.970 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼600K 84.900 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼460K 66.260 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼330K 47.160 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼730K 103.610 ▼730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼490K 69.080 ▼490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼520K 73.600 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼540K 76.990 ▼540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼300K 42.530 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼260K 37.440 ▼260K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▼20K 11,410 ▼30K
Trang sức 99.9 10,980 ▼20K 11,400 ▼30K
NL 99.99 10,740 ▼20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Hà Nội 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 22:00