Tin tức kinh tế ngày 31/7: Triển khai giảm giá điện đợt 4 cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19

01:00 | 01/08/2021

403 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Triển khai giảm giá điện đợt 4 cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19; Covid-19 khiến số lượng doanh nghiệp mới thành lập giảm mạnh; Giá xăng dầu tiếp tục giảm; Giá vàng giảm phiên giao dịch cuối tuần là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 31/7.

Giá xăng dầu tiếp tục giảm

Trong phiên giao dịch lúc 6h30 sáng ngày 30/7, theo giờ Việt Nam, giá dầu WTI được giao dịch ở ngưỡng 73,34 USD/thùng, giảm 0,28 USD/thùng trong phiên.

Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 9/2021 đứng ở mức 73,85 USD/thùng, giảm 0,25 USD/thùng trong phiên.

Tin tức kinh tế ngày 31/7: Triển khai giảm giá điện đợt 4 cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19
Giá dầu thô gặp nhiều biến động do tác động từ đại dịch Covid-19

Có thể thấy, giá dầu thô hôm nay biến động thất thường là do tình hình dịch Covid-19 đang tăng mạnh đặc biệt ở một số nước châu Âu, như Anh và Pháp.

Trước đó, ngày 27/7, liên Bộ Tài chính - Công Thương quyết định điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu theo chu kỳ 15 ngày/lần. Theo đó, giá xăng dầu hôm nay sẽ được điều chỉnh giảm nhẹ sau 3 tháng tăng giá.

Cụ thể, đối với giá xăng RON 95 được điều chỉnh giảm 102 đồng/lít xuống mức giá bán lẻ tối đa là 21.681 đồng/lít, xăng E5 RON 92 giảm 112 đồng/lít xuống mức giá bán lẻ tối đa là 20.498 đồng/lít.

Ngoài xăng, mặt hàng dầu cũng được điều chỉnh giảm nhẹ trong kỳ điều chỉnh này. Giá dầu sau khi điều chỉnh được áp dụng đối với dầu diesel là 16.375 đồng/lít; dầu hỏa là 15.398 đồng/lít và dầu mazut là 15.522 đồng/kg.​

Giá vàng giảm phiên giao dịch cuối tuần

Trên thị trường thế giới, giá vàng giao ngay chốt phiên giao dịch cuối tuần qua niêm yết của Kitco.com giao dịch ở mức 1.813,8 USD/ounce, giảm 16 USD/ounce so với sáng qua.

Dù giảm nhưng giá vàng vẫn hướng tới tuần tăng tốt nhất trong hơn 2 tháng nhờ tín hiệu cho thấy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ không giảm các biện pháp hỗ trợ kinh tế trong ngắn hạn.

Đêm qua, có thời điểm, giá vàng thế giới lên tới 1.830 USD/ounce nhưng sau đó lao xuống khi đồng USD đột ngột tăng giá. Nguyên nhân được xác định là do Mỹ công bố chỉ số PCE (chỉ số đo lường giá cả các mặt hàng tiêu dùng) tăng 0,5%, làm thị trường lo ngại lạm phát tại Mỹ ngày càng leo thang có thể thúc đẩy Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (FED) sớm tăng lãi suất cơ bản.

Một số nhà phân tích cho rằng, sự bất ổn ngày càng gia tăng trong chính sách tiền tệ, lạm phát và nguy cơ biến động trên thị trường chứng khoán toàn cầu sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với các tài sản an toàn như vàng.

Harshal Barot, chuyên gia tư vấn nghiên cứu cao cấp về Nam Á của tổ chức nghiên cứu kim loại quý Metals Focus, có trụ sở ở London (Anh) cho biết, nền tảng cơ bản của vàng vẫn còn khả quan, khi rất khó đoán định về việc liệu nền kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ hay điều gì sẽ xảy ra trên thị trường lao động

Covid-19 khiến số lượng doanh nghiệp mới thành lập giảm mạnh

Theo Tổng cục Thống kê, do tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, số ca nhiễm bởi biến chủng mới ngày càng tăng và thực hiện giãn sách xã hội ở 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Chỉ thị số 16/CT-TTg đã ảnh hưởng đến đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong tháng 7 và 7 tháng năm 2021…

Cụ thể, đã có 8.740 doanh nghiệp được thành lập mới trong tháng 7/2021 với số vốn đăng ký gần 122,8 nghìn tỷ đồng, giảm 22,8% về số doanh nghiệp, giảm 25,3% về vốn đăng ký so với tháng 6/2021. Đây được xem là mức giảm đáng kể từ sau khi dịch Covid-19 bùng phát và ngày càng phức tạp với sự lây lan nhanh chóng của biến chủng Delta.

Mặc dù giảm mạnh trong tháng 7 song số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm 2021 vẫn tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước với 75,8 nghìn doanh nghiệp. Nhờ đó, 1,065 triệu tỷ đồng sẽ được bổ sung vào nền kinh tế trong thời gian tới.

Nếu tính cả 1,367 triệu tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của gần 27,6 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 7 tháng năm 2021 là 2,432 triệu tỷ đồng, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2020.

Bên cạnh đó, còn có 29,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng năm 2021 lên 105,4 nghìn doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng có gần 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể cũng tăng cao so với cùng kỳ năm 2020 (25,5%) với 79,7 nghìn doanh nghiệp. Trong đó, gần 40,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước; 28 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,6%; 11,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 27,4%. Như vậy, trung bình mỗi tháng có gần 11,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Chính phủ ban hành Nghị quyết hỗ trợ giảm tiền điện, giảm giá điện (đợt 4) cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch Covid-19

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đồng ý với đề xuất của Bộ Công T hương về đợt giảm giá điện đợt 4 cho một số khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID -19.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đồng ý với đề xuất của Bộ Công Thương về đợt giảm giá điện đợt 4 cho một số khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID -19.

Ngày 31/7/2021, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái ký Nghị quyết số 83/NQ-CP của Chính phủ thống nhất phương án hỗ trợ giảm tiền điện, giảm giá điện (đợt 4) cho các khách hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 như đề xuất của Bộ Công Thương.

Theo đề xuất của Bộ Công Thương, hỗ trợ giảm tiền điện cho khách hàng sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt như sau:

Đối tượng hỗ trợ giảm tiền điện là các khách hàng sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố tại thời điểm ngày 30/7/2021 đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg.

Về mức hỗ trợ giảm giá điện, giảm 15% tiền điện (trước thuế VAT) trên hoá đơn tiền điện cho các khách hàng sử dụng đến 200 kWh/tháng; giảm 10% tiền điện (trước thuế VAT) trên hoá đơn tiền điện cho các khách hàng sử dụng trên 200 kWh/tháng.

Thời gian hỗ trợ giảm tiền điện cho khách sử dụng điện là 2 tháng tại các kỳ hoá đơn tháng 8 và kỳ hoá đơn tháng 9 năm 2021.

Bên cạnh đó, hỗ trợ giảm tiền điện cho các cơ sở cách ly y tế tập trung phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 có thu một phần chi phí của người cách ly.

Cụ thể, đối tượng là các cơ sở cách ly y tế tập trung phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 trong thời gian có người đang thực hiện cách ly y tế đáp ứng các điều kiện sau:

- Doanh trại quân đội, trường của quân đội, cơ sở khác đang được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chọn làm nơi cách ly y tế tập trung phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 không thu chi phí hoặc có thu một số khoản chi phí của người phải cách ly quy định tại điểm b khoản 3, điểm b khoản 4, điểm b khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 8/2/2021 của Chính phủ.

- Mua điện trực tiếp từ Tổng công ty Điện lực/Công ty Điện lực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị bán lẻ điện khác.

Mức hỗ trợ: giảm 100% tiền điện cho các đối tượng nêu trên.

Thời gian hỗ trợ giảm tiền điện 7 tháng kể từ kỳ hóa đơn tiền điện tháng 6 năm 2021 đến kỳ hóa đơn tiền điện tháng 12 năm 2021.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,700 ▼1300K 82,200 ▼1250K
AVPL/SJC HCM 79,750 ▼1250K 82,250 ▼1200K
AVPL/SJC ĐN 79,750 ▼1250K 82,250 ▼1200K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 ▼950K 74,150 ▼950K
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 ▼950K 74,050 ▼950K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,700 ▼1300K 82,200 ▼1250K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
TPHCM - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Hà Nội - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Hà Nội - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Đà Nẵng - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Miền Tây - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Miền Tây - SJC 80.700 ▼300K 83.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 ▼1300K 73.700 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 ▼970K 55.430 ▼970K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 ▼760K 43.270 ▼760K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 ▼540K 30.810 ▼540K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 ▼110K 7,520 ▼90K
Trang sức 99.9 7,275 ▼110K 7,510 ▼90K
NL 99.99 7,280 ▼110K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260 ▼110K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
Miếng SJC Thái Bình 8,100 8,310 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,100 8,310 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,100 8,310 ▼30K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,700 ▼300K 83,000 ▼500K
SJC 5c 80,700 ▼300K 83,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,700 ▼300K 83,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 72,900 ▼1100K 74,700 ▼1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 72,900 ▼1100K 74,800 ▼1200K
Nữ Trang 99.99% 72,600 ▼1200K 73,900 ▼1200K
Nữ Trang 99% 71,168 ▼1188K 73,168 ▼1188K
Nữ Trang 68% 47,907 ▼816K 50,407 ▼816K
Nữ Trang 41.7% 28,469 ▼501K 30,969 ▼501K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,086.35 16,248.84 16,769.95
CAD 18,195.12 18,378.91 18,968.33
CHF 27,338.60 27,614.75 28,500.38
CNY 3,456.34 3,491.25 3,603.76
DKK - 3,584.67 3,721.91
EUR 26,544.10 26,812.22 27,999.27
GBP 30,775.52 31,086.38 32,083.34
HKD 3,179.16 3,211.27 3,314.26
INR - 305.76 317.98
JPY 160.26 161.88 169.61
KRW 16.05 17.83 19.45
KWD - 82,702.86 86,008.35
MYR - 5,294.62 5,410.05
NOK - 2,284.04 2,380.99
RUB - 260.34 288.19
SAR - 6,795.62 7,067.23
SEK - 2,304.98 2,402.82
SGD 18,307.44 18,492.37 19,085.43
THB 609.44 677.15 703.07
USD 25,148.00 25,178.00 25,488.00
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,187 16,287 16,737
CAD 18,333 18,433 18,983
CHF 27,464 27,569 28,369
CNY - 3,473 3,583
DKK - 3,586 3,716
EUR #26,662 26,697 27,957
GBP 31,052 31,102 32,062
HKD 3,173 3,188 3,323
JPY 161.09 161.09 169.04
KRW 16.66 17.46 20.26
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,280 2,360
NZD 14,832 14,882 15,399
SEK - 2,292 2,402
SGD 18,245 18,345 19,075
THB 633.54 677.88 701.54
USD #25,180 25,180 25,488
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,188.00 25,488.00
EUR 26,599.00 26,706.00 27,900.00
GBP 30,785.00 30,971.00 31,939.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,301.00
CHF 27,396.00 27,506.00 28,358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16,138.00 16,203.00 16,702.00
SGD 18,358.00 18,432.00 18,976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18,250.00 18,323.00 18,863.00
NZD 14,838.00 15,339.00
KRW 17.68 19.32
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25255 25235 25488
AUD 16234 16284 16789
CAD 18380 18430 18886
CHF 27649 27699 28267
CNY 0 3478.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26867 26917 27627
GBP 31189 31239 31892
HKD 0 3140 0
JPY 162.46 162.96 167.49
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0403 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14862 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18488 18538 19099
THB 0 647.4 0
TWD 0 779 0
XAU 8050000 8050000 8220000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 23/04/2024 15:00