Tin tức kinh tế ngày 18/7: Không để người dân thiếu mặt hàng thiết yếu

19:42 | 18/07/2021

8,364 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Kim ngạch xuất khẩu điện thoại, linh kiện sang Trung Quốc tăng mạnh; Không để người dân thiếu hàng thiết yếu; Tỷ giá USD thế giới tăng, thị trường tự do giảm; Chưa điều chỉnh chỉ tiêu GDP năm 2021... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 18/7.

Không để người dân thiếu mặt hàng thiết yếu

Sáng 18/7, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan và Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã họp trực tuyến với các Sở Công Thương và Cục Quản lý thị trường phía Nam nhằm tìm giải pháp đảm bảo hàng hóa thiết yếu chuẩn bị cho việc áp dụng Chỉ thị 16/CT-TTg tại 19 tỉnh, thành phố từ 0h ngày 19/7.

Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng tổ chức cuộc họp trực tuyến với các Sở, Ngành của 19 tỉnh, thành phố phía Nam để bàn các giải pháp, phương án về nguồn hàng, phương thức cung ứng hàng hóa thiết yếu.
Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng tổ chức cuộc họp trực tuyến với các sở, ngành của 19 tỉnh, thành phố phía Nam để bàn các giải pháp, phương án về nguồn hàng, phương thức cung ứng hàng hóa thiết yếu.

Thông tin tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, sau 7 ngày thực hiện áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, việc cung ứng hàng hóa bị đứt gãy nghiêm trọng.

Có những thời điểm người dân rất bức xúc vì hàng hóa cung ứng không kịp thời do các chợ đầu mối đã dừng hoạt động, chỉ còn các siêu thị và cửa hàng tiện lợi mở cửa. Đối với lực lượng phục vụ cho việc cung ứng hàng hóa cho người dân, mỗi ngày có từ 200.000-210.000 người hoạt động trong các chợ đầu mối.

Bên cạnh đó, việc lưu chuyển hàng hóa giữa các tỉnh, thành phố, các vùng và 3 miền khó khăn, gây "hỗn loạn" cho khu vực, nếu không có biện pháp kịp thời tình hình sẽ gặp rất nhiều khó khăn", ông Diên cho biết.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng, diễn biến dịch đang phức tạp và nghiêm trọng. Vì thế, việc cung ứng hàng hóa là vấn đề hết sức khó khăn, nếu thiếu hàng hóa thiết yếu người dân sẽ không đủ lực dập dịch và kéo theo nhiều hệ lụy. Chia sẻ tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải, Trưởng ban Chỉ đạo cung ứng hàng hóa cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố phía Nam cho biết, TP Hồ Chí Minh đã có kinh nghiệm chống dịch, nhưng các tỉnh, thành phố mới áp dụng Chỉ thị 16 ít nhiều sẽ gặp khó khăn và tình hình sẽ thay đổi từng giờ.

Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng, lúc này cần tạo sự thông suốt thị trường bởi thực tế dịch bệnh diễn biến rất nhanh nên địa phương phải nắm chắc tình hình, đi xuống địa bàn, vùng nguyên liệu lớn để nắm thông tin, xử lý thông tin, kết nối thông tin cung cầu hàng hóa.

Trên cơ sở các ý kiến, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, diễn biến dịch ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đang rất phức tạp và tình hình có thể nghiêm trọng hơn trong các ngày tới. Vì vậy, việc cung ứng đủ hàng hóa thiết yếu là nhiệm vụ lớn nên cần xác định tâm thế đây là "thời chiến" chứ không phải trong điều kiện bình thường.

"Trong mọi tình huống hai ngành chịu trách nhiệm trước Đảng, nhân dân là không để đứt gãy chuỗi cung ứng, nhất là lương thực, thực phẩm, rau củ quả, hàng tươi sống, thuốc men", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh ngành Công Thương và Nông nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Đảng, nhân dân nếu để xảy ra việc đứt gãy chuỗi cung ứng hàng thiết yếu.

Tỷ giá USD thế giới tăng, thị trường tự do giảm

Giá USD trên thị trường quốc tế tăng nhẹ so với các ngoại tệ khác kéo giá USD trong nước đi lên; song ở thị trường tự do, giá USD lại có xu hướng giảm.

Đầu ngày 18/7, giá USD trên thị trường tự do mua vào mức 23.240 đồng/USD và bán ra mức 23.290 đồng/USD, giảm 30 đồng so với 24 giờ trước.

Trong khi đó, tại các ngân hàng thương mại, giá USD được Eximbank niêm yết mức 22.910-22.930 đồng/USD (giá mua) và 23.090 đồng/USD (giá bán).

Ngân hàng Vietcombank mua USD với giá 22.880-22.910 đồng/USD và bán ra 23.110 đồng/USD.

Ngân hàng VietinBank mua vào mức 22.910 đồng/USD, bán ra mức 23.110 đồng/USD.

Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của tiền đồng với USD ở mức 23.192. Tỷ giá tham khảo tại sở giao dịch mức mua vào là 22.975 đồng, bán ra 23.838 đồng/USD.

Giá USD được hậu thuẫn trước tin Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powel tuyên bố trước Quốc hội Mỹ rằng Ngân hàng Trung ương chưa cần vội vàng áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.

USD Index cũng được thúc đẩy bởi đánh giá ngày càng tích cực về nền kinh tế Mỹ của Fed và kế hoạch của cơ quan này về thời điểm tăng lãi suất.

Theo Bộ Thương mại Mỹ, doanh số bán lẻ đã tăng 0,6% trong tháng trước, sau khi điều chỉnh giảm 1,7% vào tháng 5, cao hơn so với dự báo của các nhà kinh tế với mức giảm 0,4%.

Doanh số bán lẻ cốt lõi, trừ doanh số bán ô tô, tăng 1,3% trong tháng trước, sau khi tháng 5 giảm 0,7%.

Doanh số bán hàng cốt lõi cũng đánh bại mức kỳ vọng tăng 0,4%.

Kim ngạch xuất khẩu điện thoại, linh kiện sang Trung Quốc tăng mạnh

Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt 24,5 tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước.

Điện thoại các loại và linh kiện là nhóm mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 5,53 tỷ USD, tăng 48,4%, chiếm 22,5% tỷ trọng xuất khẩu.

Tin tức kinh tế ngày 18/7: Không để người dân thiếu mặt hàng thiết yếu
Điện thoại các loại và linh kiện là nhóm mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 5,53 tỷ USD, tăng 48,4%, chiếm 22,5% tỷ trọng xuất khẩu.

6 tháng đầu năm nay, điện thoại và linh kiện đạt kim ngạch xuất khẩu 25,1 tỷ USD, chiếm 15,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc là thị trường có tốc độ tăng xuất khẩu rất lớn của nhóm hàng này.

Tiếp sau điện thoại là nhóm mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng đạt 5,21 tỷ USD, giảm nhẹ 3,27% so với cùng kỳ, chiếm 21,2% tỷ trọng. Mặt hàng xơ, sợi dệt các loại đạt 1,43 tỷ USD, tăng 57,1%.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, một số nhóm mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc đạt kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm trước: Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 145,7%; sắt thép các loại tăng 62,2%; cao su xuất khẩu tăng 82,4%; hạt điều tăng 86,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 60,4%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 124%; quặng và khoáng sản khác tăng 39,3%; chè tăng 62,3%.

Một số nhóm mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm trong 6 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020: Hàng thủy sản giảm 7,7%; dầu thô giảm 37,1%; xăng dầu các loại giảm 66,9%; sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ giảm 14,2%.

Dù tốc độ xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc tăng cao, trong đó có nhóm hàng điện thoại và linh kiện, nhưng tốc độ nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu, máy móc... từ thị trường này còn tăng mạnh hơn.

Nửa đầu năm 2021, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 53,6 tỷ USD, tăng 53,6% so với cùng kỳ năm trước, đưa mức nhập siêu từ thị trường Trung Quốc lên 29,1 tỷ USD, chỉ kém 6 tỷ USD nữa là bằng mức nhập khẩu cả năm 2020.

Cần phải nói thêm, cả năm 2020, nhập siêu từ thị trường Trung Quốc có giá trị 35,2 tỷ USD, tăng 3,74% so với năm 2019 (năm 2019 nhập siêu từ Trung Quốc 34 tỷ USD).

Chưa điều chỉnh chỉ tiêu GDP năm 2021

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XV không điều chỉnh chỉ tiêu GDP mà vẫn bám sát Nghị quyết 124 của Quốc hội khoá XIV để thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ của kế hoạch năm 2021.

Phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Minh Sơn trả lời tại cuộc họp báo (Ảnh Duy Linh).
Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Minh Sơn trả lời tại cuộc họp báo.

Theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Minh Sơn, GDP 6 tháng năm nay đạt 5,64%. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIV khi giao nhiệm vụ cho Chính phủ cũng đã đánh giá tổng thể và lường trước các tác động của dịch Covid-19, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá XV sẽ chưa điều chỉnh chỉ tiêu này mà giao Chính phủ phấn đấu đạt kết quả cao nhất.

Cũng liên quan đến tác động của dịch Covid-19, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Hữu Toàn thông tin, ngay từ khi chuẩn bị đại hội Đảng XIII đã đánh giá tác động của đại dịch này. Vì thế chỉ tiêu tăng GDP của 2021 là từ 6-6,5% đã thấp hơn bình quân của cả giai đoạn 5 năm 2021-2025.

Quá trình thẩm tra các kế hoạch về ngân sách, đầu tư công, các uỷ ban đều đã tính toán yếu tố của dịch Covid-19 để trình Quốc hội xem xét thông qua, ông Toàn nói.

Theo dự kiến chương trình kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, sáng 22/7 Quốc hội sẽ nghe Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm và các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước 6 tháng cuối năm 2021.

Sau đó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trình bày Báo cáo thẩm tra về nội dung trên.

Cũng tại phiên họp này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025. Tiếp theo, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trình bày Báo cáo thẩm tra về kế hoạch này.

Các nội dung nói trên đều sẽ được Quốc hội thảo luận tại tổ và hội trường.

Cuối kỳ họp Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,700 ▼1300K 82,200 ▼1250K
AVPL/SJC HCM 79,750 ▼1250K 82,250 ▼1200K
AVPL/SJC ĐN 79,750 ▼1250K 82,250 ▼1200K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 ▼950K 74,150 ▼950K
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 ▼950K 74,050 ▼950K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,700 ▼1300K 82,200 ▼1250K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
TPHCM - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Hà Nội - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Hà Nội - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Đà Nẵng - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Miền Tây - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Miền Tây - SJC 80.700 ▼300K 83.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 ▼1300K 74.800 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼900K 82.300 ▼900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 ▼1300K 73.700 ▼1300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 ▼970K 55.430 ▼970K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 ▼760K 43.270 ▼760K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 ▼540K 30.810 ▼540K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,285 ▼110K 7,520 ▼90K
Trang sức 99.9 7,275 ▼110K 7,510 ▼90K
NL 99.99 7,280 ▼110K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,260 ▼110K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,350 ▼110K 7,550 ▼90K
Miếng SJC Thái Bình 8,100 8,310 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,100 8,310 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,100 8,310 ▼30K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,700 ▼300K 83,000 ▼500K
SJC 5c 80,700 ▼300K 83,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,700 ▼300K 83,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 72,900 ▼1100K 74,700 ▼1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 72,900 ▼1100K 74,800 ▼1200K
Nữ Trang 99.99% 72,600 ▼1200K 73,900 ▼1200K
Nữ Trang 99% 71,168 ▼1188K 73,168 ▼1188K
Nữ Trang 68% 47,907 ▼816K 50,407 ▼816K
Nữ Trang 41.7% 28,469 ▼501K 30,969 ▼501K
Cập nhật: 23/04/2024 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,086.35 16,248.84 16,769.95
CAD 18,195.12 18,378.91 18,968.33
CHF 27,338.60 27,614.75 28,500.38
CNY 3,456.34 3,491.25 3,603.76
DKK - 3,584.67 3,721.91
EUR 26,544.10 26,812.22 27,999.27
GBP 30,775.52 31,086.38 32,083.34
HKD 3,179.16 3,211.27 3,314.26
INR - 305.76 317.98
JPY 160.26 161.88 169.61
KRW 16.05 17.83 19.45
KWD - 82,702.86 86,008.35
MYR - 5,294.62 5,410.05
NOK - 2,284.04 2,380.99
RUB - 260.34 288.19
SAR - 6,795.62 7,067.23
SEK - 2,304.98 2,402.82
SGD 18,307.44 18,492.37 19,085.43
THB 609.44 677.15 703.07
USD 25,148.00 25,178.00 25,488.00
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,187 16,287 16,737
CAD 18,333 18,433 18,983
CHF 27,464 27,569 28,369
CNY - 3,473 3,583
DKK - 3,586 3,716
EUR #26,662 26,697 27,957
GBP 31,052 31,102 32,062
HKD 3,173 3,188 3,323
JPY 161.09 161.09 169.04
KRW 16.66 17.46 20.26
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,280 2,360
NZD 14,832 14,882 15,399
SEK - 2,292 2,402
SGD 18,245 18,345 19,075
THB 633.54 677.88 701.54
USD #25,180 25,180 25,488
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,188.00 25,488.00
EUR 26,599.00 26,706.00 27,900.00
GBP 30,785.00 30,971.00 31,939.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,301.00
CHF 27,396.00 27,506.00 28,358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16,138.00 16,203.00 16,702.00
SGD 18,358.00 18,432.00 18,976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18,250.00 18,323.00 18,863.00
NZD 14,838.00 15,339.00
KRW 17.68 19.32
Cập nhật: 23/04/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25255 25235 25488
AUD 16234 16284 16789
CAD 18380 18430 18886
CHF 27649 27699 28267
CNY 0 3478.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26867 26917 27627
GBP 31189 31239 31892
HKD 0 3140 0
JPY 162.46 162.96 167.49
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0403 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14862 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18488 18538 19099
THB 0 647.4 0
TWD 0 779 0
XAU 8050000 8050000 8220000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 23/04/2024 15:00