Tin tức kinh tế ngày 18/6: Bắt buộc dùng hoá đơn điện tử từ tháng 7/2022

19:03 | 18/06/2019

623 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Bắt buộc dùng hoá đơn điện tử từ tháng 7/2022; Ngành nông nghiệp xuất khẩu đạt gần 20 tỷ USD; Ngành nông nghiệp tăng trưởng khá dù bị thiệt hại vì dịch tả lợn; Tập đoàn Thái Lan bắt đầu vận hành các nhà máy điện mặt trời ở Việt Nam... là những tin tức đáng chú ý trong ngày 18/6.
tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022Giá xăng dầu hôm nay 18/6 giảm mạnh do lo ngại tăng trưởng kinh tế
tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022Giá vàng hôm nay 18/6: Đồng loạt thoái lui, giá vàng SJC giảm mạnh, tới 220 ngàn đồng/lượng

Bắt buộc dùng hoá đơn điện tử từ tháng 7/2022

tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022
Từ ngày 1/7/2022, cơ quan, tổ chức, cá nhân bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử. Nguồn: Internet

Theo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, từ ngày 1/7/2022, cơ quan, tổ chức, cá nhân bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử.

Trong đó, khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập hóa đơn điện tử để giao cho người mua theo định dạng chuẩn dữ liệu mà cơ quan thuế quy định và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật về thuế, pháp luật về kế toán, không phân biệt giá trị từng lần bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.

Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán và các trường hợp xác định được doanh thu khi bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.

Trường hợp hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không đáp ứng điều kiện phải sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế nhưng cần có hóa đơn để giao cho khách hàng hoặc trường hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác được cơ quan thuế chấp nhận cấp hóa đơn điện tử để giao cho khách hàng thì được cơ quan thuế cấp hóa đơn điện tử có mã theo từng lần phát sinh và phải khai, nộp thuế trước khi cơ quan thuế cấp hóa đơn điện tử theo từng lần phát sinh.

Ngành nông nghiệp xuất khẩu đạt gần 20 tỷ USD

tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022
Quả vải Bắc Giang được chiếu xạ tại Hà Nội để xuất khẩu sang Australia. (Ảnh: HL)

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong 6 tháng đầu năm 2019, mặc dù ngành nông nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức song giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm ngư nghiệp ước tăng 2,7-2,9% so với cùng kỳ năm 2018. Giá trị sản xuất nông nghiệp (bao gồm trồng trọt, chăn nuôi) tăng khoảng 1,68%; lâm nghiệp tăng khoảng 4,53% và thủy sản tăng khoảng 6,5%.

Riêng chăn nuôi lợn gặp khó khăn do dịch tả lợn châu Phi đang lây lan trên diện rộng ra 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với tổng số lợn bị bệnh buộc phải tiêu hủy là hơn 2,6 triệu con. Do vậy, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 2 triệu tấn, giảm 5% so với cùng kỳ năm 2018.

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 19,75 tỷ USD, tăng 2,1% cùng kỳ năm 2018. Trong đó, nhóm hàng nông sản giảm 8,8%; thủy sản tăng 0,7%; lâm sản tăng 21,2% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu đã thể hiện khá rõ về tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như thủy sản (nhất là tôm nước lợ), rau, hoa, quả, các loại cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm đặc sản; giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung; tăng tỷ trọng hàng chất lượng cao trong tổng sản lượng sản xuất và hàng xuất khẩu.

Mười nhóm hàng đạt đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm

tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022
Tổng trị giá xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đạt 101,12 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2019. (Ảnh minh họa)

Theo số liệu thống kê, trong 5 tháng đầu năm 2019, tổng trị giá xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đạt 101,12 tỷ USD, tăng 7,1%, tương ứng tăng 6,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 10 nhóm hàng dẫn đầu, đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là điện thoại, dệt may, máy vi tính, hàng nông sản, máy móc, giày dép, gỗ, phương tiện vận tải, thuỷ sản và sắt thép.

Đứng đầu là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện. Xuất khẩu mặt hàng này trong 5 tháng đầu năm đạt 19,72 tỷ USD, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2018. Thứ hai là hàng dệt may với kim ngạch đạt 12,19 tỷ USD trong 5 tháng qua, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện là nhóm hàng đứng thứ ba với trị giá xuất khẩu đạt 12,55 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2018.

Nhóm hàng nông sản (bao gồm hàng rau quả, hạt điều, hạt tiêu, chè, cà phê, gạo, sắn và sản phẩm sắn, cao su) là ngành hàng xuất khẩu nhiều thứ tư. Xuất khẩu nhóm hàng này đạt 7,02 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, giảm 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Thứ năm là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác với kim ngạch 6,82 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

Cuối cùng lần lượt là giày dép các loại (7,11 tỷ USD, tăng 13,8%); gỗ và sản phẩm gỗ (4,02 tỷ USD, tăng 18,8%); phương tiện vận tải, phụ tùng (3,58 tỷ USD, tăng 4,7%); hàng thuỷ sản (3,18 tỷ USD, giảm nhẹ 0,7%); sắt thép các loại (2,93 triệu tấn, trị giá 1,89 tỷ USD, tăng 24,4% về lượng và tăng 7,6% về trị giá).

Ngành thép trong nước đang chịu nhiều áp lực

tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022
Công suất toàn ngành thép đang có dấu hiệu thừa cung. (Ảnh minh họa)

Báo cáo tài chính mới đây của nhiều doanh nghiệp ngành thép cho thấy bức tranh không mấy sáng sủa. Lợi nhuận giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, thậm chí thua lỗ. Đơn cử như Công ty Cổ phần Thép Nam Kim kết thúc quý I/2019 báo lỗ trên 100 tỷ; hay Công ty Cổ phần Thép Việt Ý (VIS) lỗ liên tiếp trong 4 quý năm 2018 với gần 330 tỷ đồng.

Hiện công suất toàn ngành lại đang có dấu hiệu thừa cung. Năm 2018, toàn ngành đã sản xuất thêm tới 1,9 triệu tấn tôn mạ do nhiều công ty thép lớn như Nam Kim, Hoa Sen, Tôn Phương Nam và Hòa Phát đẩy mạnh sản xuất, khiến mức độ cạnh tranh trên thị trường nội địa rất gay gắt. Cùng với đó, năm 2019, giá điện tăng cũng khiến ngành thép thêm khó khăn. Theo ước tính của Hiệp hội Thép, giá điện tăng 8,36% sẽ khiến chi phí phí sản xuất tăng thêm khoảng 100.000 đồng/tấn.

Đại diện Hiệp hội Thép nhận định giá thép trong thời gian tới vẫn chưa có xu hướng rõ ràng và bị chi phối nhiều bởi nhiều yếu tố khó đoán định, nhất là những căng thẳng kinh tế, thương mại trên thế giới. Do đó từ nay đến cuối năm, ngành thép sẽ vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn.

Tập đoàn Thái Lan bắt đầu vận hành các nhà máy điện mặt trời ở Việt Nam

tin tuc kinh te ngay 186 bat buoc dung hoa don dien tu tu thang 72022
Tập đoàn Thái Lan bắt đầu vận hành các nhà máy điện mặt trời ở Việt Nam. (Ảnh minh họa/TTXVN)

Công ty năng lượng B.Grimm Power, một nhánh đầu tư của tập đoàn Thái Lan B.Grimm, đã bắt đầu vận hành thương mại hai dự án điện mặt trời ở các tỉnh Tây Ninh và Phú Yên của Việt Nam với tổng công suất 677 MW. Việc đưa vào vận hành hai dự án sẽ nâng tổng công suất phát điện thương mại thêm 31% trong năm 2019 và tăng mức đóng góp của năng lượng tái tạo trong tổng danh mục của B.Grimm từ 10% trước đây lên 30%.

Chủ tịch B.Grimm Power, bà Preeyanart Soontornwata cho biết, hai dự án ở Tây Ninh và Phú Yên đã thành công trong việc trở thành một nhánh hòa vào lưới điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam theo các thỏa thuận mua điện thời hạn 20 năm.

Công ty con của B.Grimm là B.Grimm Renewable Power 1 nắm giữ 55% cổ phần trong Công ty Cổ phần Năng lượng Dầu Tiếng Tây Ninh, liên doanh phát triển hai trạm điện mặt trời với tổng công suất lắp đặt 420MW ở tỉnh này. Theo B.Grimm, đây là cơ sở điện mặt trời lớn nhất Đông Nam Á. Một chi nhánh khác là B.Grimm Renewable Power 2 nắm giữ 80% cổ phần trong Công ty Cổ phần TTP Phú Yên, chủ đầu tư dự án điện mặt trời ở tỉnh này với công suất lắp đặt 257 MW.

Cũng theo bà Preeyanart, B.Grimm Power được Chính phủ Việt Nam cho phép phát triển thêm các dự án đầu tư năng lượng tái tạo và công ty này có một số dự án phong điện ở Việt Nam sẽ được hoàn tất vào cuối năm 2019.

Lâm Anh (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 29/06/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 29/06/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/06/2025 20:00