Tin tức kinh tế ngày 14/7: Vietnam Airlines nỗ lực giảm lỗ gần 5.800 tỷ

19:21 | 14/07/2021

352 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Vietnam Airlines nỗ lực giảm lỗ gần 5.800 tỷ; Trái phiếu doanh nghiệp bất động sản giảm hơn 50% so với cùng kỳ 2020; Thị trường xe máy tăng trưởng trong đại dịch;Thị trường xe máy tăng trưởng trong đại dịch; Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến các thương hiệu cà phê ra sao?... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 14/7.

Vietnam Airlines nỗ lực giảm lỗ gần 5.800 tỷ

Thông tin được ông Đặng Ngọc Hòa, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietnam Airlines, cho biết tại Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2021 của Vietnam Airlines hôm nay 14/7.

Ông Hòa cho biết, trong điều kiện sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, Vietnam Airlines đã chủ động thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để ứng phó với đại dịch, đảm bảo duy trì hoạt động như điều chỉnh quy mô sản xuất theo thị trường, triển khai các giải pháp về lao động, tiền lương phù hợp quy mô kinh doanh, cắt giảm chi phí, triệt để tiết kiệm, đàm phán giãn, hoãn thanh toán, tái cơ cấu các khoản nợ vay và tăng cường sử dụng nguồn vốn vay ngắn hạn.

Tin tức kinh tế ngày 14/7: Vietnam Airlines nỗ lực giảm lỗ gần 5.800 tỷ

Vietnam Airlines cũng tận dụng nhiều cơ hội có thể để gia tăng doanh thu, mà trọng điểm là tăng cường hoạt động vận chuyển hàng hóa, tăng chuyến chở công dân về nước, chở khách chuyên gia. Có thời điểm hãng đã đồng loạt mở thêm hơn 20 đường bay nội địa dựa trên nguồn lực sẵn có và thị trường nội địa hồi phục nhanh.

“Những nỗ lực tự thân của Vietnam Airlines, cùng sự hỗ trợ của Chính phủ, các cơ quan bộ ngành đã giúp Vietnam Airlines giảm lỗ gần 5.800 tỷ đồng”, ông Hòa nói.

Ngoài ra hãng đã thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ tham gia phòng, chống dịch bệnh. Theo báo cáo kể từ khi dịch bùng phát đến nay, Vietnam Airlines đã chở hơn 76.000 công dân về nước, chở miễn cước hơn 130 tấn hàng hóa y tế phục vụ chống dịch.

Vietnam Airlines cũng đã thực hiện hàng chục chuyến bay chở miễn phí hơn 2 triệu liều vaccine, vận chuyển miễn phí y bác sĩ đi các tỉnh thành nội địa trên cả nước chống dịch. Hiện tại, gần 100% nhân viên tuyến đầu của Vietnam Airlines với gần 14.500 phi công, tiếp viên và nhân viên mặt đất đã được tiêm vaccine ngừa Covid-19.

Năm 2021, trước tình hình đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Vietnam Airlines xây dựng kế hoạch khả thi với mục tiêu doanh thu hợp nhất 37.364 tỷ đồng, tương đương 88,4% so với năm 2020. Để vượt qua đại dịch và nắm bắt cơ hội phát triển, Vietnam Airlines đặt mục tiêu duy trì an toàn khai thác, phòng chống dịch bệnh, giữ vững vị thế chủ lực của Vietnam Airlines Group trong ngành hàng không, tái cơ cấu toàn diện và thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ.

Trái phiếu doanh nghiệp bất động sản giảm hơn 55% so với cùng kỳ 2020

Bộ Tài chính cho biết, tổ chức tín dụng là nhà phát hành trái phiếu lớn nhất chiếm 40,2% tổng khối lượng phát hành; khối lượng trái phiếu của doanh nghiệp bất động sản giảm 55,5% so với cùng kỳ năm 2020 (chiếm 13,2% tổng khối lượng phát hành).

Lãi suất phát hành bình quân 6 tháng đầu năm 2021 là 7,9%/năm, giảm 1,6%/năm so với cùng kỳ năm 2020 (9,5%/năm).

Về nhà đầu tư, công ty chứng khoán là nhà đầu tư chính trên thị trường sơ cấp, chiếm 44,4% tổng khối lượng phát hành, tổ chức tín dụng chiếm 25% tổng khối lượng phát hành.

Tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trên thị trường sơ cấp chiếm 5,7% khối lượng phát hành, giảm mạnh so với tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân năm 2020 (là 12,68%).

Trong 6 tháng đầu năm 2021, khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ là 168.702 tỷ đồng; tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2020. Khối lượng phát hành ra công chúng là 15.375 tỷ đồng, tương đương 50,3% khối lượng phát hành của năm 2020, chiếm 8,3% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng lưu ý, cùng với xu hướng dịch chuyển vốn huy động từ kênh tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu, trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn những rủi ro tiềm ẩn cho bản thân doanh nghiệp, nhà đầu tư và thị trường nói chung.

Thị trường xe máy tăng trưởng trong đại dịch

Mới đây, Hiệp hội các Nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) đã công bố báo cáo bán hàng của các hãng xe thành viên. Theo đó, đã có tổng cộng 667.360 xe máy được bán ra thị trường trong quý 2/2021, giảm nhẹ 4,9% so với quý đầu năm nhưng lại tăng trưởng đến 28,61% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong quý 1/2021, lượng xe máy bán ra thị trường đạt 701.454 chiếc. Như vậy, cộng dồn 6 tháng đầu năm nay, lượng xe máy do các thành viên VAMM bán ra thị trường đã đạt 1.368.814 chiếc, tăng trưởng 9,5% so với cùng kỳ 2020.

Mặc dù các con số thống kê nêu trên chỉ thuộc về các thành viên VAMM song cũng phản ảnh đầy đủ tình hình thị trường. Bởi trên thực tế, các thành viên VAMM bao gồm Honda, Yamaha, SYM, Suzuki và Piaggio hiện đang chiếm hầu hết thị trường xe máy Việt Nam.

Chỉ tính riêng Honda, mặc dù hãng xe này bắt đầu có dấu hiệu thu hẹp song vẫn đang chiếm đến 77% tổng thị phần xe máy tại Việt Nam. “Miếng bánh” còn lại thuộc về Yamaha, SYM, Suzuki và một số thương hiệu mô tô, xe máy nhập khẩu khác. Trong nửa đầu năm nay, Honda đã bán ra thị trường tổng cộng 1.054.079 chiếc xe máy, tăng trưởng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến các thương hiệu cà phê?

Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tính từ đầu năm 2020 đến nay doanh thu của tất các các chuỗi cà phê lớn nhất Việt Nam như Highlands Coffee, The Coffee House, Phúc Long, Starbucks, Trung Nguyên… đều chứng kiến sự sụt giảm đáng kể.

Tin tức kinh tế ngày 14/7: Vietnam Airlines nỗ lực giảm lỗ gần 5.800 tỷ
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu của tất các các chuỗi cà phê lớn ở Việt Nam

Năm 2020, Highlands Coffee vẫn tiếp tục giữ vị thế là chuỗi cà phê lớn nhất Việt Nam, với khoảng cách so với nhóm còn lại không có nhiều thay đổi. Tổng doanh thu đạt gần 2.140 tỷ đồng, chỉ giảm nhẹ.

Nếu như trước đây The Coffee House đứng ở vị trí thứ 2, thì với việc sụt giảm tương đối, thương hiệu này đã rơi xuống vị trí thứ 3, nhường chỗ cho Phúc Long có doanh thu tăng trưởng nhẹ, vươn lên vị trí thứ 2.

Tình hình tại Starbucks không khác nhiều với The Coffee House và Phúc Long. Cả ba chuỗi cà phê này ghi nhận doanh thu trong khoảng 700-800 tỷ đồng.

Điều đáng nói, giai đoạn 2019 đổ về trước, các chuỗi đồ uống nói trên đều đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng "chóng mặt", trung bình từ 30-40% mỗi năm. Điều này càng cho thấy thêm ảnh hưởng ghê gớm của đại dịch đến toàn ngành F&B mà những cái tên trên chỉ là ví dụ điển hình.

Tương tự, hàng loạt các thương hiệu cà phê khác cũng chung số phận, như Trung Nguyên Franchising, đơn vị được thành lập để quản lý chuỗi Không gian cà phê Trung Nguyên giảm 1/3 doanh thu. NISO Group, đơn vị quản lý chuỗi nhà hàng và cà phê với thương hiệu RuNam thậm chí còn giảm hơn một nửa doanh thu.

Mặc dù doanh thu đa số đều giảm sút, tuy nhiên một số thương hiệu cà phê bằng cách nào đó vẫn gia tăng hiệu quả trong bối cảnh dịch bệnh. Trong số đó, đáng chú ý là trường hợp của Highlands Coffee và Phúc Long, hai thương hiệu này có lợi nhuận tăng lần lượt 45% và 119%, đạt 80 tỷ đồng và 35 tỷ đồng.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
AVPL/SJC HCM 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
AVPL/SJC ĐN 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,380 ▲150K 11,560 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 11,370 ▲150K 11,550 ▲150K
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
TPHCM - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Hà Nội - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Hà Nội - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Đà Nẵng - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Miền Tây - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Miền Tây - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 ▲1500K 116.500 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 ▲1490K 116.380 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 ▲1490K 115.670 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 ▲1490K 115.440 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 ▲1130K 87.530 ▲1130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 ▲870K 68.300 ▲870K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 ▲620K 48.610 ▲620K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 ▲1370K 106.810 ▲1370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 ▲920K 71.220 ▲920K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 ▲980K 75.880 ▲980K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 ▲1020K 79.370 ▲1020K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 ▲560K 43.840 ▲560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 ▲500K 38.600 ▲500K
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲50K 11,740 ▲50K
Trang sức 99.9 11,210 ▲50K 11,730 ▲50K
NL 99.99 11,220 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Miếng SJC Nghệ An 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Miếng SJC Hà Nội 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Cập nhật: 29/04/2025 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16147 16414 16989
CAD 18249 18525 19144
CHF 30848 31225 31876
CNY 0 3358 3600
EUR 28969 29238 30269
GBP 34033 34423 35366
HKD 0 3221 3424
JPY 175 179 185
KRW 0 0 19
NZD 0 15183 15773
SGD 19321 19601 20131
THB 694 757 810
USD (1,2) 25744 0 0
USD (5,10,20) 25783 0 0
USD (50,100) 25811 25845 26190
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 34,390 34,483 35,413
HKD 3,289 3,299 3,399
CHF 31,095 31,191 32,064
JPY 178.74 179.06 187.04
THB 742.99 752.17 804.51
AUD 16,458 16,518 16,970
CAD 18,515 18,574 19,078
SGD 19,526 19,587 20,206
SEK - 2,661 2,753
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,899 4,034
NOK - 2,465 2,551
CNY - 3,535 3,631
RUB - - -
NZD 15,167 15,308 15,752
KRW 16.79 17.5 18.8
EUR 29,152 29,175 30,417
TWD 727.19 - 880.35
MYR 5,616.82 - 6,337.58
SAR - 6,809.34 7,167.29
KWD - 82,536 87,774
XAU - - -
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,810 25,820 26,160
EUR 29,049 29,166 30,278
GBP 34,271 34,409 35,385
HKD 3,284 3,297 3,404
CHF 31,057 31,182 32,088
JPY 178.38 179.10 186.56
AUD 16,381 16,447 16,978
SGD 19,500 19,578 20,111
THB 759 762 795
CAD 18,457 18,531 19,048
NZD 15,245 15,755
KRW 17.26 19.01
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25900 25900 26200
AUD 16213 16313 16981
CAD 18322 18422 19077
CHF 31082 31112 31998
CNY 0 3539.5 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29140 29240 30113
GBP 34323 34373 35483
HKD 0 3358 0
JPY 176.15 177.15 186.18
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15285 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19470 19600 20333
THB 0 723.1 0
TWD 0 796 0
XAU 11900000 11900000 12130000
XBJ 10500000 10500000 12130000
Cập nhật: 29/04/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,820 25,870 26,203
USD20 25,820 25,870 26,203
USD1 25,820 25,870 26,203
AUD 16,367 16,517 17,588
EUR 29,308 29,458 30,633
CAD 18,380 18,480 19,796
SGD 19,550 19,700 20,178
JPY 179.17 180.67 185.32
GBP 34,437 34,587 35,385
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,425 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/04/2025 18:00