Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

14:06 | 06/06/2023

290 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII của Đảng.

Một số kết quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

Công nghiệp hóa (CNH) là vấn đề có tính quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Ở nước ta, đường lối CNH được hình thành khá sớm, ngay từ Đại hội III của Đảng (năm 1960). Kể từ đó, CNH luôn được xác định là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tới Đại hội VII, yêu cầu gắn CNH với hiện đại hóa (HĐH) bắt đầu được Đảng ta đề cập. Theo đó, nhận thức mới về mục tiêu, nội dung, phạm vi, lộ trình, chủ thể CNH gắn với HĐH được hình thành. Trong những giai đoạn tiếp theo, đường lối CNH, HĐH tiếp tục được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện, phát triển phù hợp tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước và bối cảnh thế giới. Từ Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đến nay, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã đạt được những kết quả quan trọng:

Một là, CNH, HĐH đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải thiện chất lượng tăng trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của nước ta là 6,0%/năm(1), cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển. Riêng 9 tháng đầu năm 2022, mặc dù kinh tế thế giới vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng thấp, nhưng kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn phát triển ổn định, vượt và đạt 14/15 chỉ tiêu đề ra, tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 8,0%(2). Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt khoảng 271,2 tỷ USD (theo đánh giá lại, đạt khoảng 343,2 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần năm 2015(3). Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP bình quân cả giai đoạn 2011 - 2020 đạt 39,0%. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 6,1 giai đoạn 2016 - 2019.

Hai là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực; công nghiệp có đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế.

Cơ cấu các ngành kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ mức 18,9% năm 2010 xuống còn 14,8% năm 2020; tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (bao gồm cả thuế sản phẩm trợ cấp) tăng từ 81,1% năm 2010 lên 85,2% năm 2020, vượt mục tiêu đề ra. Các thành phần kinh tế có đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH đất nước. Cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết, kết nối vùng. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tổng lao động xã hội giảm từ 48,6% năm 2010 xuống còn 34% năm 2020. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,7% lên 30,3%, ngành dịch vụ từ 29,7% lên khoảng 35,7% cùng giai đoạn(4).

Quy mô sản xuất của ngành công nghiệp liên tục mở rộng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của toàn ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019; năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm 2009 lên thứ 42 vào năm 2019(5). Đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như khai thác, chế biến dầu khí; điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng, vật liệu xây dựng; cơ khí, chế biến, chế tạo ô tô, xe máy; dệt, may, da giày... Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đã phát triển lớn mạnh, đóng góp lớn cả về sản xuất, đầu tư, xuất khẩu, giải quyết việc làm, như dệt may, da giày, thực phẩm chế biến, thép, hóa chất, nhựa. Một số ngành công nghiệp nền tảng, như cơ khí chế tạo; luyện kim; hóa chất; vật liệu; công nghiệp năng lượng từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Công nhân vận hành dây chuyền sản xuất sợi hiện đại ở Việt Nam (ảnh: Nguyễn Thiện Tín)_Nguồn: vapa.org.vn

Ba là, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp ổn định, bền vững; ngành dịch vụ phát triển mạnh, chuyển dịch theo hướng hiện đại.

Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2011 - 2020 đạt trung bình 3%/năm. Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại gắn với thị trường. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản được đẩy mạnh; cơ giới hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp được áp dụng rộng rãi, tạo nhiều thay đổi về phương thức canh tác, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh. Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp từng bước được nâng cao theo hướng áp dụng công nghệ mới. Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Tăng trưởng bình quân của khu vực dịch vụ giai đoạn 2011 - 2020 là 6,4%/năm(6). Một số ngành có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, như thông tin, bưu chính, viễn thông, du lịch, hàng không,... phát triển với tốc độ nhanh. Thương mại điện tử phát triển mạnh. Một số ngành dịch vụ được hiện đại hóa, hình thành các sản phẩm dịch vụ hiện đại, có chất lượng cao, như y tế, bảo hiểm,... Kinh tế số được chú trọng phát triển trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, xã hội số.

Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH ở nước ta cũng còn những hạn chế: Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt; năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế còn thấp, nội lực còn yếu; mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chưa đạt mục tiêu đề ra; công nghiệp phát triển thiếu ổn định, chưa bền vững và chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số vẫn còn khoảng cách xa so với mục tiêu đề ra và so với các nước phát triển; đô thị hóa còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng phát triển chưa đồng bộ và hiện đại; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa CNH, HĐH với các vấn đề văn hóa, xã hội, con người...

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CN 4.0) đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có quá trình CNH, HĐH, đòi hỏi nhận thức về CNH, HĐH cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển.

Nội dung cốt lõi của CN 4.0 là sự phát triển của khoa học và công nghệ, các hệ thống thông minh chiếm vai trò chủ đạo, giao tiếp giữa các nền tảng thông minh, sự “cộng sinh” giữa trí tuệ sáng tạo của con người và những sản phẩm trí tuệ nhân tạo trên phạm vi rộng lớn, có tính phổ quát, tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị trong xã hội. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động toàn diện, sâu sắc đến CNH, HĐH ở nước ta trên các khía cạnh chủ yếu sau:

Một là, thế giới được số hóa, kết nối số mọi lúc, mọi nơi, kết hợp thế giới thực với thế giới ảo. Do đó, CNH, HĐH sẽ diễn ra cả trong môi trường thực và môi trường số.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên ba lĩnh vực chính, đó là: lĩnh vực kỹ thuật số, bao gồm dữ liệu lớn (Big Data), internet kết nối vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI); lĩnh vực công nghệ sinh học (ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu); lĩnh vực vật lý, bao gồm rô-bốt thế hệ mới, in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions...), công nghệ nano. Trong đó, công nghệ kỹ thuật số là nền tảng cho tất cả các lĩnh vực. Các thành tựu của trí tuệ nhân tạo với máy móc tự động và thông minh, như phương tiện tự hành, in 3D, internet kết nối vạn vật (IoT), công nghệ sinh học và công nghệ nano,... chính là đột phá của công nghệ số, tiếp nối thành quả của cuộc cách mạng số hóa đã diễn ra mấy chục năm qua từ khi có máy tính. Đây là sự thay đổi cơ bản về cách thức sản xuất của con người, sản xuất được điều khiển và quyết định từ không gian số. Có hai khía cạnh của công nghệ số, một là việc số hóa và hai là việc quản trị và xử lý các dữ liệu được số hóa. Công nghệ số có phần chung rất lớn với công nghệ thông tin, đó là phần quản trị và xử lý dữ liệu được số hóa. Trải qua các làn sóng của công nghệ số, những đột phá trong thời gian gần đây, như điện toán đám mây, thiết bị di động thông minh, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật (IoT)... đang tạo điều kiện cho sản xuất thông minh được thực hiện rộng rãi.

Trí tuệ nhân tạo làm cho máy tính không những biết tính toán, mà còn có các khả năng của trí tuệ con người, tiêu biểu là các khả năng lập luận, hiểu ngôn ngữ và biết học tập. “Học máy” là việc phân tích các tập dữ liệu ngày càng lớn và phức tạp để đưa ra các quyết định hành động. Với sự bùng nổ của dữ liệu, kết quả của việc số hóa và kết nối internet rộng rãi, khoa học dữ liệu - với trung tâm là phân tích dữ liệu dựa vào “học máy” và thống kê - đang trở thành nền tảng của CN 4.0. Trong lĩnh vực sinh học, dựa vào các phương pháp của “học máy” có thể phân tích nguồn dữ liệu sinh học khổng lồ nhằm khám phá về sự sống, góp phần vào những tiến bộ của công nghệ sinh học, mở ra nhiều triển vọng cho y học và nông nghiệp. Công nghệ nano cũng có những bước tiến dựa vào công nghệ số. Gần đây nước Mỹ khởi đầu chương trình nghiên cứu lớn về vật liệu tính toán nhằm dùng các kỹ thuật của “học máy” để rút ngắn giai đoạn thử nghiệm trong phòng thí nghiệm khi chế tạo các vật liệu mới. Một chương trình tương tự ở Nhật Bản cũng đã bắt đầu từ ba năm qua.

Hai là, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có quy mô và tốc độ phát triển chưa có tiền lệ, làm thay đổi lực lượng sản xuất, thúc đẩy chuyển đổi CNH, HĐH sang giai đoạn mới: thâm dụng tri thức và đột phá đổi mới sáng tạo; mở ra nhiều cơ hội “bắt kịp”, “đi cùng” và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính) thì tốc độ phát triển của CN 4.0 này theo cấp số nhân. Thời gian từ khi các ý tưởng về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, hiện thực hóa các ý tưởng đó trong các phòng thí nghiệm và thương mại hóa ở quy mô lớn được rút ngắn đáng kể.

Tốc độ sáng tạo những công nghệ đột phá hiện nay đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi trong toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Hàng tỷ người đang được kết nối với nhau thông qua điện thoại di động, qua mạng xã hội. Các thế hệ máy tính hiện nay đang có sức mạnh xử lý chưa từng có với dung lượng lưu trữ tăng lên đáng kể cho phép con người dễ dàng truy cập vào kho kiến thức không giới hạn. Những khả năng này được nhân lên nhờ những công nghệ đột phá trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, internet kết nối vạn vật, phương tiện tự hành, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và máy tính lượng tử. Những đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực với tốc độ rất nhanh và tương tác thúc đẩy nhau tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng trở nên hiệu quả, thông minh hơn.

Ba là, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có phạm vi tác động bao trùm, toàn diện, hình thành các quan hệ sản xuất mới, các hình thức kinh tế mới, tạo sự chuyển dịch các dòng vốn, công nghệ, lao động; thúc đẩy xã hội hóa, quốc tế hóa cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đòi hỏi CNH, HĐH của mỗi nước phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu.

Cuộc cách mạng này tạo ra nền sản xuất và dịch vụ linh hoạt, tạo ra kỷ nguyên mới trong công nghệ rô-bốt, thay đổi nguyên lý sản xuất, chuyển từ sản xuất tự động hóa sang sản xuất bởi các nhà máy thông minh. Trong các nhà máy thông minh, các máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống điều khiển, có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của rô-bốt có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng dụng trong xã hội, tạo ra nền sản xuất và dịch vụ linh hoạt, làm tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.

Số hóa thực hiện trong tất cả các ngành, nghề khác nhau. Công nghệ tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới. Đổi mới về công nghệ tạo ra một “phép màu” cho dịch vụ cung ứng, cải thiện năng suất và hiệu suất về lâu dài. Chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc sẽ giảm, các dịch vụ hậu cần (logistics) và chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, chi phí thương mại sẽ giảm.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực kỹ thuật số làm cho dữ liệu, thông tin trở thành dữ liệu đầu vào của hầu hết các ngành, lĩnh vực; tạo ra phương thức sản xuất mới, nền kinh tế bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, vì vậy, dường như không có giới hạn. Sự giao thoa, hội tụ các lĩnh vực công nghệ cao sẽ xóa mờ dần ranh giới giữa các ngành kinh tế, giữa các khâu, quy trình sản xuất. Công nghiệp hóa, HĐH trong bối cảnh CN 4.0 không chỉ là hiện đại hóa máy móc, công nghệ, mà còn là đổi mới, thông minh hóa quá trình sản xuất; cá thể hóa sản phẩm, đòi hỏi phải chú trọng nâng cao nội lực, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu cho cả nền kinh tế và mỗi doanh nghiệp.

Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta

Những phân tích, nhận định trên đây về tác động của CN 4.0 đến nội dung, mục tiêu, động lực của CNH, HĐH đất nước trong tình hình mới cho thấy CNH, HĐH ở nước ta đã bước sang một nấc thang mới, đòi hỏi phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy, cách thức tổ chức thực hiện, tiến trình và bước đi; xây dựng, thực thi cơ chế, chính sách; xác định trách nhiệm của các chủ thể. Để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh mới cần quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, nội dung CNH, HĐH được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Về quan điểm, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội ngày càng dựa nhiều hơn vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh, bền vững.

Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là sự nghiệp của toàn dân, cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với đô thị hóa.

Công nghiệp hóa, HĐH phải khai thác, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của cả nước, vùng, địa phương, nước đi sau trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ giữa tuần tự với đi tắt, đón đầu; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là ưu tiên hàng đầu; chuyển đổi số là đột phá để rút ngắn quá trình CNH, HĐH.

Thực hiện CNH, HĐH phải có lộ trình, bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực, cơ chế, chính sách để phát triển các cực tăng trưởng, ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, dịch vụ có giá trị gia tăng cao; nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước là động lực chính, chủ đạo, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò quan trọng.

Công nghiệp hóa, HĐH phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị, truyền thống, bản lĩnh con người Việt Nam và vai trò xung kích của doanh nhân, doanh nghiệp và giai cấp công nhân hiện đại.

Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Kiểm tra tấm wafer - nguyên liệu để sản xuất sản phẩm cho chất bán dẫn tại Công ty TNHH Hana Micron Vina ở tỉnh Bắc Giang_Ảnh: TTXVN

Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH đến năm 2030 của nước ta là: Hoàn thành các tiêu chí của nước công nghiệp, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng cao. Xây dựng được nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, từng bước làm chủ được công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên; nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ tiên tiến; các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao.

Nội dung cốt lõi của CNH, HĐH đất nước đến năm 2030 là: Thúc đẩy mạnh mẽ ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của CN 4.0 để tạo nên sự bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, hiệu quả, thực chất; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, từng bước làm chủ được thiết kế công nghệ, công nghệ lõi, công nghệ nền của một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên; cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Để thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo nghị quyết của Đảng, trong thời gian tới, cần tập trung nỗ lực thực hiện các giải pháp sau:

Một là, xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thúc đẩy CNH, HĐH đất nước nhanh, bền vững.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, thương mại, đầu tư, kinh doanh, khởi nghiệp, sáng tạo, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin và truyền thông và giao dịch điện tử. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phát triển sản xuất thông minh, nhà máy thông minh, xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất thông minh. Có chính sách thí điểm, đặc thù về phát triển thị trường khoa học, công nghệ, ứng dụng các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới, nâng cao giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách về đất đai, tài khóa, tín dụng, khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực để thúc đẩy, hỗ trợ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; có chính sách đột phá để thu hút đầu tư của tư nhân, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.

Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng nhằm khơi thông các nguồn lực tài chính quốc gia, tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước. Đổi mới chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với thông lệ quốc tế; điều chỉnh, tập trung tín dụng chủ yếu vào các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; phát triển mạnh tài chính xanh, tín dụng xanh.

Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, thuế của hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Có cơ chế, chính sách riêng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên với cơ chế hỗ trợ tài chính của Nhà nước.

Hoàn thiện tiêu chí về đầu tư để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với chiến lược, quy hoạch, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn trong CNH, HĐH. Thí điểm thực hiện các cơ chế đặc thù để tạo đột phá trong phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường bộ, đường sắt. Nghiên cứu hình thành Quỹ phát triển hạ tầng. Ban hành cơ chế, chính sách phù hợp về đền bù, hỗ trợ tái định cư, thu hồi đất phục vụ cho các dự án kết cấu hạ tầng quan trọng cấp quốc gia, vùng. Xây dựng khung tiêu chí và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển các khu công nghiệp sinh thái, thông minh, khu đô thị công nghiệp - thương mại - dịch vụ.

Hai là, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường.

Đẩy nhanh thực hiện chủ trương của Đảng về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia. Tiếp tục cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng chú trọng xây dựng năng lực nội sinh dựa trên cơ sở tự chủ về nguyên liệu, sản xuất và thị trường để hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới, phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, phát thải các-bon thấp. Điều chỉnh phân bố không gian phát triển công nghiệp vùng, địa phương gắn với các hành lang kinh tế trọng điểm, phù hợp quy hoạch tổng thể quốc gia, lợi thế của vùng, chuyên môn hóa cao.

Xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045. Quy hoạch và có cơ chế khuyến khích phát triển khu công nghiệp hỗ trợ, khu, cụm công nghiệp chuyên biệt cho một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên.

Hình thành hệ thống khu công nghiệp quốc gia quy mô lớn theo hướng sinh thái. Tiếp tục triển khai thí điểm mô hình khu kinh tế đặc thù, khu kinh tế mới. Tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân sinh và công nghiệp quốc phòng, hình thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung.

Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Cơ cấu lại công nghiệp quốc phòng, hình thành các cơ sở công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiện đại, lưỡng dụng. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết, đầu tư nguồn lực hỗ trợ các cơ sở dân sinh phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước và xuất khẩu, ưu tiên phát triển các vật liệu xanh, vật liệu mới. Phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn và tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA).

Ba là, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến, thị trường; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị. Phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics phục vụ nông nghiệp.

Khuyến khích phát triển công nghiệp cơ khí, hóa chất và công nghệ sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông, lâm thủy sản. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị. Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả nông nghiệp, nông thôn.

Thúc đẩy dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp tục cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển dịch vụ công nghệ cao, các loại dịch vụ mới của kinh tế số. Xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin, logistics, vận tải...

Bốn là, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong tình hình mới.

Đẩy nhanh thể chế hóa và cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Có lộ trình tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển.

Xây dựng và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, liên kết hội nhập khu vực và thế giới. Hình thành các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia gắn với các cụm liên kết ngành, các chuỗi giá trị, các ngành có giá trị xuất khẩu và doanh thu lớn. Xây dựng và phát triển các nền tảng, mạng lưới đổi mới sáng tạo mở. Thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu làm cơ sở để phổ biến và nhân rộng. Chú trọng đầu tư và chuẩn bị trước một bước nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tương lai. Khuyến khích phát triển các nền tảng học trực tuyến mở, thí điểm các mô hình đại học mới thích ứng với quá trình chuyển đổi số.

Rà soát, xây dựng và hoàn thiện các chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi nhân lực sang nhân lực chất lượng cao, nhân lực số đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo chuyên gia, nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên. Quan tâm đào tạo nâng cao trình độ lao động nông thôn; phát triển nhân lực nghiên cứu, chuyên gia trong nông nghiệp.

Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia và vùng về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, năng lượng, hạ tầng số. Phát triển hệ thống đường cao tốc; nghiên cứu, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển.

Có đề án tổng thể, thống nhất về cơ chế quản lý, khai thác các tài sản kết cấu hạ tầng giao thông hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa theo hướng tăng cường xã hội hóa, tách biệt rõ vai trò quản lý nhà nước với vai trò quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; nghiên cứu áp dụng thí điểm mô hình đầu tư công - quản trị tư.

Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng số; quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông cho giai đoạn tới theo định hướng hạ tầng số là thiết yếu, bảo đảm an toàn thông tin mạng là then chốt, ưu tiên đầu tư, phát triển nhanh, đi trước một bước.

Khuyến khích phát triển các mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ, nhất là tại các đô thị, vùng đô thị có mật độ dân số cao. Phát triển hệ thống đô thị theo mạng lưới, đồng bộ, hiện đại dựa trên lợi thế của từng vùng, miền với mật độ kinh tế và tập trung lao động ở mức cao, gắn kết chặt chẽ với CNH, HĐH. Tập trung xây dựng và nhân rộng mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành, phát triển đô thị và các trung tâm kinh tế biển mạnh./.

PGS, TS BÙI NGỌC QUỴNH - TS PHẠM QUỐC QUÂN

Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

--------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 8

(2) Ban Tuyên giáo Trung ương: Thông báo nhanh kết quả Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XIII của Đảng, 2022

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 9

(4) Dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 5

(5) Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương: Công nghiệp Việt Nam năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020, Hà Nội, 2020, tr. 5

(6) Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương: Công nghiệp Việt Nam năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020, Tlđd, tr. 9

Theo Tạp chí Cộng sản

Động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa!Động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa!
Bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tưBảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,680 ▲30K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,670 ▲30K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,037 16,137 16,587
CAD 18,212 18,312 18,862
CHF 27,540 27,645 28,445
CNY - 3,475 3,585
DKK - 3,578 3,708
EUR #26,603 26,638 27,898
GBP 31,205 31,255 32,215
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.52 161.52 169.47
KRW 16.63 17.43 20.23
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,261 2,341
NZD 14,713 14,763 15,280
SEK - 2,266 2,376
SGD 18,221 18,321 19,051
THB 637.06 681.4 705.06
USD #25,183 25,183 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16070 16120 16525
CAD 18252 18302 18707
CHF 27792 27842 28255
CNY 0 3478.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26795 26845 27351
GBP 31362 31412 31872
HKD 0 3140 0
JPY 162.88 163.38 167.92
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14751 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18509 18509 18866
THB 0 649.6 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 14:00