Thuế thu nhập cá nhân - Đã đến lúc cần điều chỉnh

08:37 | 24/11/2023

169 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong khi tình hình kinh tế, mặt bằng giá hàng hóa, dịch vụ đã có nhiều thay đổi nhưng chính sách thuế thu nhập cá nhân đã duy trì gần 10 năm, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc cần điều chỉnh…

Báo cáo của Bộ Tài chính mới đây cho thấy, số thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trong 9 tháng năm 2023 đạt 121.200 tỷ đồng, thấp hơn 7.200 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, tương đương mức giảm 6%. Con số này cũng chỉ mới đạt được 78% dự thu ngân sách năm 2023 (154.652 tỷ đồng), trong 10 năm qua, đây là năm đầu tiên số thu thuế TNCN trong 3 quý của năm tăng trưởng âm.

trong 10 năm qua, đây là năm đầu tiên số thu thuế TNCN trong 3 quý của năm tăng trưởng âm - Ảnh minh họa
Trong 10 năm qua, đây là năm đầu tiên số thu thuế TNCN trong 3 quý của năm tăng trưởng âm - Ảnh minh họa

Mặc dù số thu của sắc thuế này giảm nhưng số thu thuế TNCN hiện nay vẫn cao gấp 3,2 lần so với năm 2013. Theo đó, năm 2013, số thu thuế TNCN đạt 46.458 tỷ đồng thì đến năm 2022, ngành thuế ghi nhận số thu thuế TNCN ở mức kỷ lục, vào khoảng 153.258 tỷ đồng (tăng 24,6% so với năm 2021). Tỷ trọng đóng góp vào ngân sách của sắc thuế này ngày càng tăng cao, chiếm khoảng 10,5% tổng thu do ngành thuế quản lý và tương đương 11% tổng thu nội địa của ngành này.

Chia sẻ về thực tế đã nêu, một số ý kiến cho rằng, thuế TNCN bản chất là thuế đánh vào thu nhập của người lao động và thu nhập của công dân từ chuyển nhượng tài sản, như là chuyển nhượng bất động sản, chứng khoán, trúng thưởng xổ số,… việc giảm thuế TNCN phản ánh bức tranh của nền kinh tế trong năm qua, doanh nghiệp khó khăn, thu nhập của người lao động giảm sút.

Ngoài những nguyên nhân khách quan dẫn đến số thu sụt giảm, theo chuyên gia, còn có nguyên nhân chủ quan trong công tác quản lý thuế. Cụ thể, trong một vài năm trở lại đây, kinh tế tăng trưởng dương nên số thu thuế nói chung, thuế TNCN nói riêng tăng lên là đương nhiên. Thế nhưng khi kinh tế tăng trưởng dương mà số thu thuế lại giảm thì cần phải xem lại.

Nhiều ý kiến cho rằng, đã lúc cần điều chỉnh lại những tồn tại, bất cập của thuế TNCN - Ảnh minh họa
Nhiều ý kiến cho rằng, đã lúc cần điều chỉnh lại những tồn tại, bất cập của thuế TNCN - Ảnh minh họa

Đặc biệt, trong thuế TNCN có 10 nguồn thu tính thuế nhưng đóng góp lớn nhất vẫn đến từ tiền công, tiền lương của người lao động, chiếm tỷ trọng hơn 70%. Đáng nói, tình trạng lạc hậu của chính sách thuế này đã được đề cập rất nhiều nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh 11 triệu đồng/người/tháng đối với người đóng thuế và 4,4 triệu đồng/người/tháng đối với người phụ thuộc; điều kiện xem xét người có thu nhập trên 1 triệu đồng/tháng không được xem là người phụ thuộc, hay mức thu nhập vãng lai 2 triệu đồng phải khấu trừ thuế 10%... đều hết sức lạc hậu, thậm chí vô lý.

Theo chuyên gia Nguyễn Ngọc Tú - giảng viên Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, những bất cập nói trên cần được sửa đổi càng nhanh càng tốt. Trước mắt, để giải quyết nhanh chỉ cần tăng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế lên 20 triệu đồng/người/tháng, người phụ thuộc lên 10 triệu đồng/người/tháng là cơ bản giải quyết phần nào bất cập.

“Điều chỉnh này chỉ cần một Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là có thể triển khai ngay. Sự thay đổi này sẽ tạo động lực tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, người tiêu dùng có thu nhập tăng thêm sức mua, từ đó doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh trong nước. Cần có những chính sách khoan sức dân trong giai đoạn này mới có thể thúc đẩy được kinh tế tăng trưởng”, vị chuyên gia này nhấn mạnh.

Thực tế, những vấn đề bất cập, tồn tại của thuế TNCN không phải là câu chuyện mới mà là vấn đề “nóng” gây xôn xao dư luận suốt thời gian qua, trong đó, phương án điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh; thay đổi khởi điểm chịu thuế là yêu cầu cấp thiết và được các đại biểu Quốc hội quan tâm thảo luận tại các Kỳ họp Quốc hội gần đây.

Theo đại biểu Trần Văn Lâm – Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang, các quy định trong tính thuế TNCN như khởi điểm thu nhập chịu thuế, mức giảm trừ gia cảnh, bậc chịu thuế... không được cập nhật theo biến động của lương tối thiểu, giá cả và lạm phát.

“Có nội dung đã lạc hậu cả chục năm. Đây là bất cập lớn”, đại biểu Trần Văn Lâm nhấn mạnh.

Đồng quan điểm đã nêu, không ít ý kiến cũng cho rằng, sửa Luật Thuế thu nhập cá nhân là vấn đề hết sức cấp bách, mang ý nghĩa nhân văn và bảo đảm công bằng cho người lao động. Ðây cũng là cách khoan thư sức dân và nuôi dưỡng nguồn thu.

Đặc biệt, nhiều ý kiến cũng kỳ vọng, Luật này cần được sửa đổi sớm, chứ không nên chờ tới năm 2025 mới đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025), thông qua tại Kỳ họp thứ 11 (tháng 5/2026) như dự kiến hiện nay.

Liên quan đến câu chuyện thuế TNCN, thông tin với báo chí, Bộ trưởng Bộ Tài chính - Hồ Đức Phớc cho biết, so với thế giới, chỉ số tính thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam so với lương cơ sở đang cao hơn 2,4 lần, ngưỡng chịu thuế bình quân chung ở nước ngoài chỉ tính từ 0,5 - 1 lần so với lương cơ sở.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, mức giảm trừ gia cảnh so với lương cơ sở như vậy là cao, nhưng đang thấp hơn mức sống đô thị của người dân. Đặc biệt, thu nhập 12 triệu đồng/tháng ở đô thị “không đủ sống” nhưng 11 triệu đồng đã phải nộp thuế.

“Dự Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) chưa được bổ sung vào chương trình làm Luật trong thời gian tới. Sau khi thực hiện cải cách tiền lương từ 01/7/2024, trên cơ sở đó sẽ tính thu nhập gốc, tính mức bình quân tăng lương mỗi năm là 7 - 8% để làm căn cứ tính ra thu nhập bình quân chịu thuế”, Bộ trưởng Phớc chia sẻ.

Đồng thời cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh tính thuế TNCN hiện thấp so với cuộc sống tại các đô thị và sẽ tăng mức này khi sửa Luật. Bộ Tài chính đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét đưa Luật Thuế thu nhập cá nhân vào chương trình sửa đổi, để điều chỉnh các quy định tính thuế thu nhập.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Thuế thu nhập cá nhân - Phải điều chỉnh kịp thời để phù hợp với thực tế

Thuế thu nhập cá nhân - Phải điều chỉnh kịp thời để phù hợp với thực tế

Trước những khó khăn, biến động lớn của tình hình kinh tế, áp lực của người nộp thuế ngày một gia tăng, chuyên gia cho rằng, thuế thu nhập cá nhân cần được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn…

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,380 ▲150K 11,560 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 11,370 ▲150K 11,550 ▲100K
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.500
TPHCM - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.500 117.500
Hà Nội - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.500
Đà Nẵng - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.500 117.500
Miền Tây - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.380 116.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.660 116.160
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.430 115.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.400 87.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.100 68.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.320 48.820
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.770 107.270
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.020 71.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.700 76.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.210 79.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.530 44.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.260 38.760
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,370 ▲100K 11,890 ▲100K
Trang sức 99.9 11,360 ▲100K 11,880 ▲100K
NL 99.99 11,370 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,370 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16106 16373 16968
CAD 18241 18517 19146
CHF 30784 31161 31812
CNY 0 3358 3600
EUR 28936 29205 30250
GBP 33839 34228 35179
HKD 0 3223 3427
JPY 174 178 184
KRW 0 0 19
NZD 0 15194 15796
SGD 19238 19518 20058
THB 691 754 808
USD (1,2) 25754 0 0
USD (5,10,20) 25793 0 0
USD (50,100) 25821 25855 26210
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,194 34,286 35,198
HKD 3,294 3,304 3,405
CHF 30,966 31,062 31,915
JPY 177.39 177.71 185.69
THB 739.71 748.85 801.18
AUD 16,404 16,463 16,916
CAD 18,522 18,582 19,085
SGD 19,445 19,505 20,126
SEK - 2,636 2,739
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,894 4,029
NOK - 2,447 2,540
CNY - 3,532 3,629
RUB - - -
NZD 15,172 15,313 15,763
KRW 16.79 17.51 18.82
EUR 29,115 29,138 30,380
TWD 721.86 - 873.86
MYR 5,558.71 - 6,274.65
SAR - 6,819.9 7,178.24
KWD - 82,586 87,810
XAU - - -
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,850 25,855 26,195
EUR 28,989 29,105 30,216
GBP 34,032 34,169 35,142
HKD 3,289 3,302 3,409
CHF 30,868 30,992 31,889
JPY 176.78 177.49 184.83
AUD 16,316 16,382 16,911
SGD 19,447 19,525 20,054
THB 755 758 792
CAD 18,451 18,525 19,042
NZD 15,261 25,771
KRW 17.30 19.06
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25800 25800 26200
AUD 16285 16385 16960
CAD 18425 18525 19082
CHF 31029 31059 31933
CNY 0 3534.8 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29119 29219 30094
GBP 34143 34193 35301
HKD 0 3358 0
JPY 178.05 178.55 185.11
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15305 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19397 19527 20262
THB 0 720.3 0
TWD 0 796 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11400000 11400000 12100000
Cập nhật: 26/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,211
USD20 25,850 25,900 26,211
USD1 25,850 25,900 26,211
AUD 16,335 16,485 17,569
EUR 29,269 29,419 30,608
CAD 18,375 18,475 19,803
SGD 19,477 19,627 20,114
JPY 178.05 179.55 184.32
GBP 34,243 34,393 35,191
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,420 0
THB 0 755 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/04/2025 21:00