Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô

09:24 | 28/09/2023

67 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thị trường trong nước được đánh giá là điểm sáng của nền kinh tế khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng năm 2023 vẫn duy trì tăng trưởng ở mức 2 con số (đạt 10%). Đây là động lực quan trọng, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế vĩ mô.
Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Các diễn giả tham dự buổi Tọa đàm

Thị trường trong nước là trụ đỡ nền kinh tế

Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.043,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, mức tăng 2 con số đã được duy trì liên tục từ đầu năm đến nay. Đây là điểm sáng tích cực của nền kinh tế trong bối cảnh các yếu tố vĩ mô khác như xuất nhập khẩu, đầu tư suy giảm.

Phát biểu tại Toạ đàm Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô do Báo Công Thương tổ chức mới đây, ông Lê Huy Khôi - Trưởng phòng Quản lý Khoa học và đào tạo - Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương – Bộ Công Thương cho biết, kết quả khả quan đó có được là nhờ tổng hòa những chính sách sâu xa từ trước, trong và sau đại dịch. Đó là những chính sách ta đưa ra để kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt là việc ta đã sớm dỡ bỏ giãn cách xã hội, giúp tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp được tạo điều kiện quay trở lại hoạt động sản xuất, kéo các doanh nghiệp và nhà đầu tư, người lao động nước ngoài quay lại làm việc, tác động đến tăng trưởng tổng mức bán lẻ trong những năm sau đại dịch.

Thứ hai là sự nhận diện chính xác của Chính phủ trong việc xác định các trụ cột để duy trì tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng trong nước thời gian qua. Đặc biệt, giữa năm 2022, Chính phủ đã nhận ra rằng bức tranh kinh tế sẽ có xu hướng suy giảm dưới tác động của đại dịch và sự suy giảm bên ngoài. Từ đó, Chính phủ đã xác định 2 trụ cột chính là rà soát, sát sao việc lập kế hoạch cho đầu tư công. Thứ hai là xác định quy mô dân số trên 100 triệu dân và tiêu dùng trong nước chính là yếu tố chính duy trì tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như tăng cường tiêu dùng nội địa. Từ đó đưa ra những quyết sách lớn để kích cầu tiêu dùng.

Chuyên gia kinh tế - PGS.TS Trần Đình Thiên chia sẻ thêm, thời gian qua, cấu trúc thị trường nội địa, tiêu dùng đã có sự thay đổi. Có những bộ phận trước đây chưa nổi lên như thương mại điện tử, thì hiện nay đang vươn lên mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho tăng trưởng nội địa. Do đó, ta phải quan tâm đến thị trường tiêu dùng ở một góc độ khác để có những chính sách kích thích phát triển trong thời gian tới.

Sự tăng trưởng của thị trường nội địa còn được kích thích bằng những chương trình khuyến mại, kích cầu tiêu dùng mạnh mẽ của doanh nghiệp trong thời gian qua. Ông Phùng Thế Vinh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Kangaroo, Thành viên Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam cho hay, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam từ đầu năm 2023 đã tích cực vào cuộc tham gia các chương trình kích cầu. Các chuỗi bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam gần như xác định bỏ ngỏ mục tiêu lợi nhuận để có được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kích cầu tiêu dùng.

“Với Kangaroo, chúng tôi đưa ra 4 giải pháp đã đang và tiếp tục thực hiện. Thứ nhất là tổ chức hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại nội địa, thúc đẩy kinh tế số qua nền tảng thương mại điện tử để thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng trong nước. Thứ hai là tăng truyền thông về người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Thứ ba là đầu tư hiện đại hóa kênh phân phối trên khắp cả nước. Thứ tư là tham gia kích cầu tiêu dùng, đưa ra sản phẩm đặc thù phù hợp với mức tiêu dùng và nhu cầu ở thời điểm hiện tại” – ông Phùng Thế Vinh thông tin.

Phải coi thị trường nội địa là trọng yếu của nền kinh tế

Mặc dù duy trì mức tăng khá cao trong một thời gian dài, song tiêu dùng trong nước có xu hướng đang giảm dần trong những tháng gần đây. Một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sức mua ở thị trường nội địa chính là nhiều khu vực doanh nghiệp sản xuất bị thu hẹp khiến thu nhập của người dân sụt giảm, ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu. Chưa kể, các chính sách của Chính phủ dù rất nhiều nhưng độ trễ lớn, chưa mang lại hiệu quả kích cầu như mong đợi.

Để đẩy mạnh tăng trưởng thị trường nội địa trong những tháng cuối năm, ông Lê Huy Khôi nêu ý kiến, việc đầu tiên là Chính phủ cần sát sao với công tác đầu tư công, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công để hỗ trợ cho đầu ra của sản xuất. Bên cạnh đó, hiện nay các chính sách còn có độ trễ cho nên chúng ta cần thực hiện nhanh và quyết liệt các chính sách.

“Năm 2023, Thái Lan sẽ có những chủ trương bơm tiền cho tiêu dùng nội địa để kéo theo sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là gợi ý tốt cho Việt Nam” – ông Khôi chia sẻ.

Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có chính sách hạ lãi suất để góp phần đảm bảo sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Ngoài ra, các chính sách cần khai thác tốt hơn khu vực thị trường nông thôn vốn có nhiều dư địa cũng như phát triển thương mại điện tử một cách mạnh mẽ hơn.

Về phía doanh nghiệp, ông Phùng Thế Vinh đề xuất: “Điều doanh nghiệp cần nhất là giữ được ổn định tỷ giá và ổn định mặt bằng lãi suất, kể cả lãi suất cho vay ngắn hạn và cho vay đầu tư trung và dài hạn”.

PGS. TS Trần Đình Thiên chia sẻ thêm, thị trường 100 triệu dân của ta không nhỏ, lại thuộc loại tăng trưởng cao trên thế giới. Điều này khiến quy mô thị trường nội địa rất đáng kể. Đây là thị trường chiến lược cho đất nước. Phải củng cố thị trường nội địa vì đây là khu vực thị trường trọng yếu cho tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô.

“Nếu như khu vực đầu tư nước ngoài chủ yếu đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu thì khu vực thị trường trong nước chính là mảnh đất cho doanh nghiệp Việt Nam. Khi củng cố nội địa có nghĩa là không chỉ lo thị trường mà còn lo cho lực lượng sản xuất. Phải xác định tư duy như vậy để có những giải pháp mang tính chiến lược, còn nếu chỉ tháo gỡ bằng các giải pháp ngắn hạn thì không ổn” – PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

Theo đó, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng, chính sách phải hướng vào các giải pháp tài khoá để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất. Đồng thời tháo gỡ khó khăn về thủ tục quy trình. Ví dụ đầu tư công không phải thông mấy con đường mà phải “bơm máu” cho nền kinh tế, giúp người lao động có việc làm, giúp vực dậy sản xuất cho doanh nghiệp.

Các Bộ ngành, doanh nghiệp cần “bắt tay” để kích cầu tiêu dùng cuối năm. Các giải pháp không phải chỉ là giảm giá thông thường mà phải có những giải pháp mạnh như có các phiếu mua hàng cho người dân để kích thích tiêu dùng, giúp thị trường nội địa sống động lên, tạo nên khí thế mới, niềm tin mới và giúp doanh nghiệp Việt Nam vực dậy sản xuất.

“Với chính sách giảm VAT từ 10% xuống 8%, tôi nghĩ là không đủ. Nên chăng giảm mạnh hơn, gỡ bỏ các tiêu chí, tiêu chuẩn khắt khe để doanh nghiệp dễ dàng hấp thụ chính sách. Đồng thời, có cả các chính sách bảo vệ người dám làm, dám quyết định. Tình huống đặc biệt cần những chính sách đặc biệt” – PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

Hải Anh

Thời cơ vàng cho lúa gạo Việt NamThời cơ vàng cho lúa gạo Việt Nam
Doanh nghiệp nêu lý do giá gạo xuất khẩu “bốc hơi” 35 USD/tấnDoanh nghiệp nêu lý do giá gạo xuất khẩu “bốc hơi” 35 USD/tấn
Gia tăng giá trị nông sản xuất khẩuGia tăng giá trị nông sản xuất khẩu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC HCM 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC ĐN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
TPHCM - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Hà Nội - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Hà Nội - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Đà Nẵng - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Đà Nẵng - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Miền Tây - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Miền Tây - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼800K 113.000 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼800K 112.890 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼790K 112.200 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼790K 111.970 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼600K 84.900 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼460K 66.260 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼330K 47.160 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼730K 103.610 ▼730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼490K 69.080 ▼490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼520K 73.600 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼540K 76.990 ▼540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼300K 42.530 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼260K 37.440 ▼260K
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▼20K 11,410 ▼30K
Trang sức 99.9 10,980 ▼20K 11,400 ▼30K
NL 99.99 10,740 ▼20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Hà Nội 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Cập nhật: 07/06/2025 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 20:45