Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô

09:24 | 28/09/2023

64 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thị trường trong nước được đánh giá là điểm sáng của nền kinh tế khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng năm 2023 vẫn duy trì tăng trưởng ở mức 2 con số (đạt 10%). Đây là động lực quan trọng, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế vĩ mô.
Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Các diễn giả tham dự buổi Tọa đàm

Thị trường trong nước là trụ đỡ nền kinh tế

Theo Tổng cục Thống kê, 8 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.043,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, mức tăng 2 con số đã được duy trì liên tục từ đầu năm đến nay. Đây là điểm sáng tích cực của nền kinh tế trong bối cảnh các yếu tố vĩ mô khác như xuất nhập khẩu, đầu tư suy giảm.

Phát biểu tại Toạ đàm Thúc đẩy tăng trưởng thị trường trong nước gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô do Báo Công Thương tổ chức mới đây, ông Lê Huy Khôi - Trưởng phòng Quản lý Khoa học và đào tạo - Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương – Bộ Công Thương cho biết, kết quả khả quan đó có được là nhờ tổng hòa những chính sách sâu xa từ trước, trong và sau đại dịch. Đó là những chính sách ta đưa ra để kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt là việc ta đã sớm dỡ bỏ giãn cách xã hội, giúp tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp được tạo điều kiện quay trở lại hoạt động sản xuất, kéo các doanh nghiệp và nhà đầu tư, người lao động nước ngoài quay lại làm việc, tác động đến tăng trưởng tổng mức bán lẻ trong những năm sau đại dịch.

Thứ hai là sự nhận diện chính xác của Chính phủ trong việc xác định các trụ cột để duy trì tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng trong nước thời gian qua. Đặc biệt, giữa năm 2022, Chính phủ đã nhận ra rằng bức tranh kinh tế sẽ có xu hướng suy giảm dưới tác động của đại dịch và sự suy giảm bên ngoài. Từ đó, Chính phủ đã xác định 2 trụ cột chính là rà soát, sát sao việc lập kế hoạch cho đầu tư công. Thứ hai là xác định quy mô dân số trên 100 triệu dân và tiêu dùng trong nước chính là yếu tố chính duy trì tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như tăng cường tiêu dùng nội địa. Từ đó đưa ra những quyết sách lớn để kích cầu tiêu dùng.

Chuyên gia kinh tế - PGS.TS Trần Đình Thiên chia sẻ thêm, thời gian qua, cấu trúc thị trường nội địa, tiêu dùng đã có sự thay đổi. Có những bộ phận trước đây chưa nổi lên như thương mại điện tử, thì hiện nay đang vươn lên mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho tăng trưởng nội địa. Do đó, ta phải quan tâm đến thị trường tiêu dùng ở một góc độ khác để có những chính sách kích thích phát triển trong thời gian tới.

Sự tăng trưởng của thị trường nội địa còn được kích thích bằng những chương trình khuyến mại, kích cầu tiêu dùng mạnh mẽ của doanh nghiệp trong thời gian qua. Ông Phùng Thế Vinh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Kangaroo, Thành viên Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam cho hay, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam từ đầu năm 2023 đã tích cực vào cuộc tham gia các chương trình kích cầu. Các chuỗi bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam gần như xác định bỏ ngỏ mục tiêu lợi nhuận để có được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kích cầu tiêu dùng.

“Với Kangaroo, chúng tôi đưa ra 4 giải pháp đã đang và tiếp tục thực hiện. Thứ nhất là tổ chức hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại nội địa, thúc đẩy kinh tế số qua nền tảng thương mại điện tử để thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng trong nước. Thứ hai là tăng truyền thông về người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Thứ ba là đầu tư hiện đại hóa kênh phân phối trên khắp cả nước. Thứ tư là tham gia kích cầu tiêu dùng, đưa ra sản phẩm đặc thù phù hợp với mức tiêu dùng và nhu cầu ở thời điểm hiện tại” – ông Phùng Thế Vinh thông tin.

Phải coi thị trường nội địa là trọng yếu của nền kinh tế

Mặc dù duy trì mức tăng khá cao trong một thời gian dài, song tiêu dùng trong nước có xu hướng đang giảm dần trong những tháng gần đây. Một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sức mua ở thị trường nội địa chính là nhiều khu vực doanh nghiệp sản xuất bị thu hẹp khiến thu nhập của người dân sụt giảm, ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu. Chưa kể, các chính sách của Chính phủ dù rất nhiều nhưng độ trễ lớn, chưa mang lại hiệu quả kích cầu như mong đợi.

Để đẩy mạnh tăng trưởng thị trường nội địa trong những tháng cuối năm, ông Lê Huy Khôi nêu ý kiến, việc đầu tiên là Chính phủ cần sát sao với công tác đầu tư công, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công để hỗ trợ cho đầu ra của sản xuất. Bên cạnh đó, hiện nay các chính sách còn có độ trễ cho nên chúng ta cần thực hiện nhanh và quyết liệt các chính sách.

“Năm 2023, Thái Lan sẽ có những chủ trương bơm tiền cho tiêu dùng nội địa để kéo theo sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là gợi ý tốt cho Việt Nam” – ông Khôi chia sẻ.

Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có chính sách hạ lãi suất để góp phần đảm bảo sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Ngoài ra, các chính sách cần khai thác tốt hơn khu vực thị trường nông thôn vốn có nhiều dư địa cũng như phát triển thương mại điện tử một cách mạnh mẽ hơn.

Về phía doanh nghiệp, ông Phùng Thế Vinh đề xuất: “Điều doanh nghiệp cần nhất là giữ được ổn định tỷ giá và ổn định mặt bằng lãi suất, kể cả lãi suất cho vay ngắn hạn và cho vay đầu tư trung và dài hạn”.

PGS. TS Trần Đình Thiên chia sẻ thêm, thị trường 100 triệu dân của ta không nhỏ, lại thuộc loại tăng trưởng cao trên thế giới. Điều này khiến quy mô thị trường nội địa rất đáng kể. Đây là thị trường chiến lược cho đất nước. Phải củng cố thị trường nội địa vì đây là khu vực thị trường trọng yếu cho tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô.

“Nếu như khu vực đầu tư nước ngoài chủ yếu đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu thì khu vực thị trường trong nước chính là mảnh đất cho doanh nghiệp Việt Nam. Khi củng cố nội địa có nghĩa là không chỉ lo thị trường mà còn lo cho lực lượng sản xuất. Phải xác định tư duy như vậy để có những giải pháp mang tính chiến lược, còn nếu chỉ tháo gỡ bằng các giải pháp ngắn hạn thì không ổn” – PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

Theo đó, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng, chính sách phải hướng vào các giải pháp tài khoá để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất. Đồng thời tháo gỡ khó khăn về thủ tục quy trình. Ví dụ đầu tư công không phải thông mấy con đường mà phải “bơm máu” cho nền kinh tế, giúp người lao động có việc làm, giúp vực dậy sản xuất cho doanh nghiệp.

Các Bộ ngành, doanh nghiệp cần “bắt tay” để kích cầu tiêu dùng cuối năm. Các giải pháp không phải chỉ là giảm giá thông thường mà phải có những giải pháp mạnh như có các phiếu mua hàng cho người dân để kích thích tiêu dùng, giúp thị trường nội địa sống động lên, tạo nên khí thế mới, niềm tin mới và giúp doanh nghiệp Việt Nam vực dậy sản xuất.

“Với chính sách giảm VAT từ 10% xuống 8%, tôi nghĩ là không đủ. Nên chăng giảm mạnh hơn, gỡ bỏ các tiêu chí, tiêu chuẩn khắt khe để doanh nghiệp dễ dàng hấp thụ chính sách. Đồng thời, có cả các chính sách bảo vệ người dám làm, dám quyết định. Tình huống đặc biệt cần những chính sách đặc biệt” – PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.

Hải Anh

Thời cơ vàng cho lúa gạo Việt NamThời cơ vàng cho lúa gạo Việt Nam
Doanh nghiệp nêu lý do giá gạo xuất khẩu “bốc hơi” 35 USD/tấnDoanh nghiệp nêu lý do giá gạo xuất khẩu “bốc hơi” 35 USD/tấn
Gia tăng giá trị nông sản xuất khẩuGia tăng giá trị nông sản xuất khẩu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,450 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,350 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 01/05/2024 01:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,127 16,147 16,747
CAD 18,114 18,124 18,824
CHF 27,076 27,096 28,046
CNY - 3,429 3,569
DKK - 3,539 3,709
EUR #26,206 26,416 27,706
GBP 31,139 31,149 32,319
HKD 3,110 3,120 3,315
JPY 156.62 156.77 166.32
KRW 16.09 16.29 20.09
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,207 2,327
NZD 14,699 14,709 15,289
SEK - 2,229 2,364
SGD 18,014 18,024 18,824
THB 628.64 668.64 696.64
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 01/05/2024 01:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 01/05/2024 01:45