Quốc hội "truy" giá thịt lợn, Bộ trưởng Nông nghiệp khuyên nên ăn… gà, cá!

17:40 | 13/06/2020

406 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đại biểu Quốc hội hỏi bao giờ giá thịt lợn giảm, Bộ trưởng Nông nghiệp trình bày, không lý gì toàn dân cứ phải tập trung ăn thịt lợn…

Chiều 13/6, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường giải trình trước Quốc hội về các vấn đề nóng của ngành nông nghiệp, trong đó có việc giá thịt lợn cứ cao, bất chấp các chỉ đạo của Chính phủ.

Gà, cá, tôm rất tốt, không lý gì tập trung ăn thịt lợn!

Quốc hội
Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường xin thêm thời lượng đề trình bày trước Quốc hội.

Theo Bộ trưởng, có một số nguyên nhân dẫn đến giá lợn cao. Thứ nhất là dịch tả lợn châu Phi, “một loại dịch bệnh rất đặc biệt, hết sức nguy hiểm cho ngành chăn nuôi lợn trên thế giới và Việt Nam”.

Chính thức đã xảy ra tại Trung Quốc từ tháng /2018, sau một năm rưỡi, trên toàn thế giới đã có 33 nước xuất hiện dịch, làm cho tổng đàn lợn của toàn thế giới vào tháng 12/2019 giảm 12%. Trung Quốc, quốc gia bị tổn thương lớn nhất do dịch, giảm tới 53% sản lượng, kéo theo hệ lụy là thực phẩm bị khủng hoảng và đặc biệt giá lợn của phía Trung Quốc tăng lên rất cao, 130.000 -140.000 đồng/kg.

Điều hành phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nhắc Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, đại biểu muốn biết làm cách nào phục hồi đàn lợn, giảm giá thịt trên thị trường.

Bộ trưởng Nông nghiệp khẳng định, cơ quan điều hành đã rất quyết tâm để giảm giá thịt lợn và tiếp tục trình bày, tại Việt Nam, dịch tả lợn châu Phi làm cho xấp xỉ 6 triệu con lợn bị tiêu hủy, giảm 20% về lượng. Chính điều này là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng biến động giá vừa qua.

Trước tình hình đó, theo Bộ trưởng, ngay từ tháng 3/2019, ngành đã có chủ trương phát triển các nhóm thực phẩm khác, như: gà, thủy sản, trứng. Chính vì thế, cuối năm 2019, cả nước có 760.000 tấn thực phẩm bù đắp, không xảy ra thiếu thực phẩm.

Tuy nhiên, vì lợn chết mất 20% tổng đàn nên phải phục hồi đàn theo lộ trình. Theo kế hoạch, đến quý 4 năm nay, hệ số đầu lợn sẽ ngang mức 31 triệu con của thời điểm trước khi bị dịch xảy ra.

“Cung cầu nó chưa gặp nhau, dẫn đến câu chuyện giá tăng”.

Trước tình hình này, Chính phủ, Thủ tướng đã tập trung chỉ đạo ngành nông nghiệp cùng với các địa phương đang tập trung đẩy nhanh hơn quá trình tái đàn, nhưng cũng phải thận trọng đề phòng dịch bệnh quay lại. Rất nhiều địa phương cũng đã có chính sách hỗ trợ nông dân khôi phục đàn lợn.

“Việc thứ ba, nhân diễn đàn này, chúng tôi đề nghị tập trung khuyến cáo và lựa chọn các thực phẩm đa dạng. Không có lý gì bây giờ toàn dân cứ tập trung ăn thịt lợn cả. Thịt gà rất tốt, do bà con nông dân sản xuất ra. Cá cũng vậy, tôm cũng vậy, trứng cũng vậy. Đều của nông dân Việt cả. Đa dạng các loại thực phẩm ra, vừa bổ dưỡng tốt cho cơ thể, vừa không gây áp lực cho một ngành nào”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khuyến nghị, nhiều đại biểu Quốc hội bật cười.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu thực tế, giá thịt lợn hiện vẫn đang rất cao, vấn đề là làm sao hạ giá, bình ổn thị trường?

Bộ trưởng lập tức trả lời, là cần tập trung tái đàn nhanh, đưa ra khuyến cáo đa dạng sản phẩm, tăng cường thương mại để làm sao kiểm soát, không để trục lợi, không để lợi dụng chuyện này để tăng giá…

“Còn nói giá bao nhiêu thì không thể kết luận là giá bao nhiêu. Chúng tôi làm sao cố gắng để cung cầu gặp nhau sớm để có giá phù hợp nhất” - Bộ trưởng chốt lại.

Mệnh lệnh hành chính không thể “ép” thịt giảm giá

Quốc hội
Phiên thảo luận về tình hình kinh tế xã hội tại kỳ họp này của Quốc hội sẽ kéo dài 2 ngày.

Tranh luận lại với Bộ trưởng Nông nghiệp, đại biểu Thái Trường Giang (Cà Mau) chia sẻ về những khó khăn ngành nông nghiệp phải đối mặt giai đoạn qua nhưng không đồng tình với lý do Bộ trưởng nêu về vấn đề giá thịt lợn.

Theo đại biểu, việc thịt lợn tăng giá mạnh là theo quy luật cung cầu, khi nguồn cung không đáp ứng đủ cầu thì giá thịt đương nhiên tăng, các biện pháp mệnh lệnh hành chính đưa ra để “ép” giá thịt giảm là không hiệu quả.

Đại biểu cũng bình luận, càng không thể nói, thịt lợn đắt quá thì người dân chỉ việc chuyển qua ăn thịt gà, tôm, trứng là xong…

Vấn đề người dân quan tâm, bức xúc là dù giá tăng, người tiêu dùng phải ăn thịt “giá chát” thì các hộ chăn nuôi nuôi gia công cho các doanh nghiệp vẫn chỉ nhận được 4.000 đồng/kg thịt. Điều đó nghĩa là cả người tiêu dùng và người sản xuất đều thua thiệt, chỉ có tư thương, doanh nghiệp hưởng lợi từ việc lợn tăng giá.

Từ việc này, đại biểu cũng đề nghị Chính phủ xem xét lại công tác điều hành gía các mặt hàng thiết yếu thời gian qua. Ngoài chuyện giá thịt lợn tăng không điểm dừng, dư luận còn băn khoăn khi giá xăng giảm mạnh (tới 50%) nhưng mọi mặt hàng đi kièm với giá xăng không hề giảm theo. Ngược lại, mỗi khi mới chỉ rục rịch có tin xăng chuẩn bị tăng giá thì các mặt hàng khác, thậm chí không liên quan gì nhiều cũng đã tăng.

“Như vậy là vấn đề điều hành giá của Chính phủ mới đáng nói, cần xem xét” – đại biểu bình luận.

Đại biểu Nguyễn Thanh Xuân (Cần Thơ) cũng tranh luận về giải pháp Bộ trưởng Nông nghiệp đề ra. Theo ông, những biện pháp Bộ trưởng Cường nêu mới là giải pháp tình thế. Cần có giải pháp nào lâu dài, bền vững cho việc này chứ không phải là giải pháp tình thế, chuyển ăn thịt lợn sang thịt gà?

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 11,240
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 112.500 115.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.300 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.190 114.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.480 113.980
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.250 113.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.750 86.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.810 67.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.410 47.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,040 11,490
Trang sức 99.9 11,030 11,480
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,250 11,550
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,250 11,550
Miếng SJC Thái Bình 11,700 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,700 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,700 11,920
Cập nhật: 13/05/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16082 16348 16930
CAD 18047 18322 18945
CHF 30072 30446 31104
CNY 0 3358 3600
EUR 28215 28481 29517
GBP 33440 33828 34769
HKD 0 3201 3404
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14956 15549
SGD 19327 19607 20141
THB 691 754 808
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26150
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,787 25,787 26,147
USD(1-2-5) 24,756 - -
USD(10-20) 24,756 - -
GBP 33,808 33,900 34,810
HKD 3,273 3,283 3,382
CHF 30,371 30,465 31,321
JPY 172.18 172.49 180.18
THB 741.29 750.44 803.15
AUD 16,404 16,463 16,903
CAD 18,339 18,398 18,895
SGD 19,564 19,625 20,247
SEK - 2,615 2,706
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,811 3,943
NOK - 2,450 2,536
CNY - 3,562 3,659
RUB - - -
NZD 14,953 15,092 15,533
KRW 17 - 19.08
EUR 28,467 28,490 29,705
TWD 771.42 - 933.95
MYR 5,647.93 - 6,372.78
SAR - 6,806.82 7,164.68
KWD - 82,261 87,467
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,217 28,330 29,430
GBP 33,558 33,693 34,660
HKD 3,265 3,278 3,384
CHF 30,101 30,222 31,116
JPY 171.19 171.88 178.92
AUD 16,281 16,346 16,875
SGD 19,510 19,588 20,121
THB 755 758 792
CAD 18,246 18,319 18,828
NZD 15,006 15,512
KRW 17.50 19.27
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16239 16339 16912
CAD 18219 18319 18876
CHF 30277 30307 31195
CNY 0 3563.1 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28443 28543 29315
GBP 33691 33741 34843
HKD 0 3355 0
JPY 171.47 172.47 178.98
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15047 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19469 19599 20332
THB 0 720.1 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11800000 11800000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,190
USD20 25,770 25,820 26,190
USD1 25,770 25,820 26,190
AUD 16,322 16,472 17,538
EUR 28,545 28,695 29,870
CAD 18,170 18,270 19,592
SGD 19,564 19,714 20,181
JPY 172.78 174.28 178.94
GBP 33,810 33,960 35,160
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 08:00