Phát súng đầu tiên của Trung Quốc trong cuộc "chiến tranh lạnh" với Mỹ

07:31 | 28/05/2020

5,029 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Giảm giá đồng nhân dân tệ xuống mức thấp nhất kể từ năm 2008 là tín hiệu rõ ràng cho thấy ý định khiêu khích Mỹ của Trung Quốc.
Phát súng đầu tiên của Trung Quốc trong cuộc
Ảnh: China Photos/Getty Images.

Kể từ khi bất ngờ phá giá đồng nhân dân tệ vào năm 2015, gây ra một cuộc khủng hoảng trên toàn cầu, Trung Quốc có xu hướng để đồng nội tệ suy yếu, đặc biệt là khi Bắc Kinh muốn gửi đi thông điệp cho Mỹ sau khi nước này áp đặt mức thuế mới đối với Trung Quốc vào tháng 8 năm ngoái.

Đồng nhân dân tệ hạ giá sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Trung Quốc và gây khó dễ cho các nhà xuất khẩu Mỹ. Vì vậy, đây có thể được xem là một động thái gây hấn.

Mới đây, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã thiết lập tỉ giá tham chiếu đồng nhân dân tệ ở mức thấp nhất kể từ năm 2008, theo Bloomberg.

Bước đi này được thực hiện sau khi Tổng thống Donald Trump cấm một quỹ hưu trí do chính phủ Mỹ kiểm soát đầu tư vào cổ phiếu Trung Quốc, làm dấy lên rủi ro rằng các quỹ hưu trí khác trên toàn nước Mỹ cũng có thể bị cấm mua và nắm giữ cổ phiếu Trung Quốc.

Chính quyền Tổng thống Trump cũng tuyên bố sẽ cấm vận kinh tế 33 doanh nghiệp và tổ chức Trung Quốc, dựa trên các cáo buộc vi phạm nhân quyền. Mỹ còn cấm các nhà sản xuất của mình cung cấp hàng hóa cho Huawei, vì lý do an ninh quốc gia.

Không những thế, cụm từ “chiến tranh” ngày càng được nhắc đến nhiều hơn trong các cuộc bàn luận về nền kinh tế toàn cầu và hệ thống tài chính. Rất ít tài sản có thể cung cấp chỗ trú ẩn an toàn cho các nhà đầu tư nếu chiến tranh nổ ra giữa Mỹ và Trung Quốc. Tất cả các bên sẽ đều thiệt hại nặng nề. Do vậy, khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa hai cường quốc đứng đầu thế giới gần như bằng không.

Đây chính là lý do giải thích cho việc không có tình trạng bán tháo cổ phiếu hoặc hàng hóa trong những ngày qua, bất chấp mối quan hệ Mỹ - Trung ngày càng xấu đi.

Tuy nhiên, phản ứng của thị trường chứng khoán có thể đã quá lạc quan. Đại dịch Covid-19 đã gia tăng căng thẳng giữa hai nước và nới rộng sự mất cân bằng trong nền kinh tế toàn cầu.

Nguyên nhân thực sự của căng thẳng Mỹ - Trung

Một số chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng cốt lõi của vấn đề là bản thân nước Mỹ và đồng USD không còn đủ khả năng để neo giữ hệ thống tài chính toàn cầu. Tuy vậy, Trung Quốc cũng không đủ sức thay thế Mỹ. Căng thẳng chỉ có thể được giải quyết nếu Mỹ và Trung Quốc ổn định được nền kinh tế trong nước.

Nhà báo Matthew Klein của tờ Barron và Giáo sư Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh nhận định, nguyên nhân khiến Mỹ và Trung Quốc đối đầu là xung đột giữa người giàu và người nghèo. Họ cho rằng vốn từ Mỹ chảy vào Trung Quốc giúp người giàu ở cả hai nước hưởng lợi, trong khi người lao động phải chịu thiệt thòi lớn. Nếu Mỹ và Trung Quốc không tìm được cách để giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, rạn nứt giữa hai nước sẽ ngày càng sâu thêm.

Ông Michael Howell, nhà sáng lập quỹ CrossBorder Capital thì lại nhận thấy vấn đề gốc rễ là do sự chênh lệch giữa trình độ phát triển của ngành tài chính và ngành công nghiệp Mỹ và Trung Quốc. Ông cho rằng khu vực tài chính trong nền kinh tế Mỹ phát triển quá mức, còn khu vực công nghiệp lại kém phát triển, trong khi Trung Quốc thì ngược lại. Các nhà lãnh đạo của hai nước rất khó có thể cân bằng sự chênh lệch này. Trung Quốc cần tài chính hóa để không cần nhập vốn từ Mỹ. Ngược lại, Mỹ cần tái công nghiệp hóa để không phải nhập hàng hóa Trung Quốc giá rẻ. Trừ khi hai quá trình này xảy ra cùng một lúc, vấn đề sẽ không được giải quyết.

Không thể ngăn được chiến tranh lạnh?

Trong trường hợp thất bại, một cuộc Chiến tranh Lạnh mới sẽ là giải pháp khả thi hơn cả. Cuộc chiến đầu tiên đã không ngăn cản được đà tăng trưởng ấn tượng của các nền kinh tế phương Tây và thậm chí khi Xô Viết còn tồn tại, cũng chưa bao giờ trở thành một cuộc chiến về quân sự. Do vậy, cuộc chiến tranh lạnh tiếp theo chưa chắc sẽ gây ra hậu quả thảm khốc.

Thay vì một thế giới xoay quanh đồng USD, chúng ta có thể chứng kiến một thế giới lưỡng cực. Trung Quốc có thể sẽ thiết lập sức ảnh hưởng lớn lên tài chính ở châu Á. Đây cũng là một trong những mục tiêu mà Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Trung Quốc hướng đến.

Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hiện đang hoán đổi thanh khoản với 14 ngân hàng trung ương khác nhau. Danh sách các quốc gia tham gia chương trình hoán đổi với Fed bao gồm những đồng minh thân cận của Mỹ như Mexico, Brazil, Australia, New Zealand, Singapore và Hàn Quốc. Nga và Trung Quốc hiển nhiên không có tên trong danh sách này. Có thể thấy mục tiêu của chương trình này là cô lập Trung Quốc.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo của Mỹ và Trung Quốc có thể nhắm đến một kết cục tốt đẹp hơn. Các biện pháp mạnh tay nhằm giải quyết vấn đề trong nước sẽ giúp ích. Tranh cãi với nhau chẳng mang lại lợi lộc gì.

Thế nhưng, dường như Covid-19 đã thúc đẩy hai nhà lãnh đạo lựa chọn giải pháp dễ dàng hơn và gia tăng các cuộc đối đầu. Trong ngắn hạn, thế giới có thể tiếp tục tránh được Chiến tranh lạnh. Nhưng về lâu dài, kể cả khi có vắc xin chống Covid-19, cuộc chiến này chắc chắn sẽ xảy ra.

Theo Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 69,050 ▲200K 69,600 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 68,950 ▲200K 69,500 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,897 15,997 16,447
CAD 18,050 18,150 18,700
CHF 27,060 27,165 27,965
CNY - 3,394 3,504
DKK - 3,532 3,662
EUR #26,251 26,286 27,546
GBP 30,915 30,965 31,925
HKD 3,095 3,110 3,245
JPY 160.57 160.57 168.52
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,242 2,322
NZD 14,559 14,609 15,126
SEK - 2,264 2,374
SGD 17,938 18,038 18,638
THB 628.74 673.08 696.74
USD #24,564 24,644 24,984
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24600 24650 24990
AUD 15940 15990 16402
CAD 18096 18146 18553
CHF 27285 27335 27748
CNY 0 3397.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26462 26512 27015
GBP 31095 31145 31612
HKD 0 3115 0
JPY 161.87 162.37 166.88
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14601 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18224 18224 18581
THB 0 640.8 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 15:45