Ông Đỗ Mười đã “bắt bệnh” siêu lạm phát ra sao?

16:05 | 02/10/2018

579 lượt xem
|
Thời đó,sau khi đi sâu nghiên cứu tình hình kinh tế - tài chính, ông kết luận: Lạm phát ở nước ta có nguyên nhân do hậu quả của ba cuộc chiến tranh, song chủ yếu là do những yếu kém về tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội dẫn đến những mất cân đối lớn trong nền kinh tế.

Dưới đây, Dân Trí lược trích từ bài viết “Anh Đỗ Mười và cuộc đấu tranh kiềm chế và đẩy lùi lạm phát (1988-1989)” của tác giả Nguyễn Thượng Hòa – nguyên Quyền Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước, nguyên cố vấn, chuyên gia cao cấp trong cuốn sách “Đồng chí Đỗ Mười - Dấu ấn qua những chặng đường lịch sử” của NXB Chính trị quốc gia - Sự thật (2012).

Ông Đỗ Mười đã “bắt bệnh” siêu lạm phát ra sao?
Ông Đỗ Mười là người có dấu ấn rõ nét trong công cuộc kiềm chế lạm phát phi mã giai đoạn sau khi đất nước đổi mới

Luôn luôn lo lắng về tình hình giá cả tăng cao

Ông Nguyễn Thượng Hòa cho biết, từ tháng 10/1956, khi được Đảng điều về làm Thứ trưởng Bộ Nội thương, ông Đỗ Mười đã rất quan tâm lĩnh vực kinh tế. Một trong những vấn đề ông thường xuyên yêu cầu báo cáo là tình hình thị trường, giá cả và những biện pháp bình ổn giá, đặc biệt là vấn đề cân đối ba mặt: tiền tệ - tài chính - hàng hóa (lúc đó thường gọi là kim - tài - mậu).

Dưới sự chỉ đạo của ông Đỗ Mười, ngành thương nghiệp đã cùng với các ngành tài chính, ngân hàng tích cực đấu tranh bình ổn giá có kết quả trong suốt thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế sau kháng chiến chống thực dân Pháp (1955-1960).

Đầu những năm 1980, khi trở lại với công tác kinh tế trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách khởi công nghiệp - xây dựng - vật tư - tài chính - tiền tệ - vật giá - nội, ngoại thương, ông luôn luôn lo lắng về tình hình giá cả tăng cao, bắt đầu có biểu hiện lạm phát.

"Anh làm việc ngày đêm với các đồng chí phụ trách các ngành, các địa phương để thúc đẩy sản xuất, tăng nguồn hàng cung ứng cho thị trường, đôn đốc việc tiếp nhận nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư nhập khẩu và cung ứng cho các ngành sản xuất, chỉ đạo hằng ngày việc thu mua nguồn hàng trong nước và cung ứng cho thị trường, công tác tài chính, ngân hàng, vật giá. Kết quả là từ năm 1981 đến năm 1985, giá hàng tháng chỉ tăng ở mức 3-5%", ông Hòa kể lại.

Đi sâu nghiên cứu tình hình kinh tế - tài chính, ông rút ra kết luận: Lạm phát ở nước ta có nguyên nhân do hậu quả của ba cuộc chiến tranh, song chủ yếu là do những yếu kém về tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội dẫn đến những mất cân đối lớn trong nền kinh tế.

"Bắt bệnh" lạm phát

Ông Đỗ Mười lúc đó đã chỉ ra hàng loạt mất cân đối rất quan trọng trực tiếp gây ra lạm phát chưa được khắc phục, đó là:

- Mất cân đối cung cầu hàng hoá: Việc thực hiện ba chương trình: sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là lương thực), sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu, tuy có làm tăng thêm lượng hàng hóa sản xuất ra, nhưng hàng hóa trên thị trường vẫn khan hiếm, vì phần lớn hàng hóa sản xuất ra được đưa vào cung cấp theo tem phiếu, một số loại hàng dành để xuất khẩu theo các hiệp định của khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế các nước XHCN - PV) như hàng may mặc, giày dép, rượu, thuốc lá, v.v... lượng đưa ra bán ở thị trường không đáng kể.

Vật tư cho sản xuất như xăng dầu, kim khí, phân hóa học, bông sợi, hóa chất nhập khẩu từ các nước XHCN không đáp ứng nhu cầu. Việc nhập bổ sung từ các nước ngoài XHCN bị hạn chế do thiếu ngoại tệ mạnh. Đại bộ phận vật tư lại được đưa vào cung cấp theo kế hoạch cho các DNNN, phân bón thì đưa vào hợp đồng hai chiều để trao đổi thóc lúa với nông dân, phần đưa ra thị trường bán cho các cơ sở sản xuất tư nhân rất ít.

Mặt khác, ta lại tự làm khó ta bằng những quy định hạn chế ngặt nghèo việc nhập khẩu qua đường phi mậu dịch của cán bộ, chuyên gia ra nước ngoài công tác, sinh viên và người Việt lao động ở nước ngoài đem theo khi về nước, hạn chế Việt kiều gửi hàng hóa và ngoại tệ về nước cho thân nhân.

- Mất cân đối thu chi tài chính: Do sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả mà thu nhập quốc dân tăng chậm, mức động viên cho ngân sách thấp, lại bị thất thu nhiều, nhất là thuế. Ngược lại yêu cầu chi rất lớn mà đại bộ phận là các khoản bao cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, chi bù lỗ xuất, nhập khẩu, chi hỗ trợ hàng cung cấp theo tem phiếu, chi lương cho công nhân, viên chức nhà nước và trợ cấp theo các chính sách xã hội... Hậu quả là ngân sách nhà nước bội chi ngày càng lớn và Nhà nước phải yêu cầu ngân hàng phát hành thêm tiền mặt cho ngân sách vay để bảo đảm cân đối thu chi ngân sách.

- Mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu và giữa thu chi ngoại hối: Nguyên nhân chính là tỷ giá ngoại hối bất hợp lý, Nhà nước định giá ngoại tệ quá thấp so với giá trị thực trên thị trường. Hậu quả là xuất khẩu thường bị lỗ lớn, Nhà nước phải trợ giá xuất khẩu, ngược lại giá bán hàng nhập khẩu lại quá rẻ khiến Nhà nước thất thu rất lớn. Hằng năm ngân sách nhà nước phải bù lỗ rất lớn cho xuất nhập khẩu.

Cũng do tỷ giá ngoại hối bất hợp lý nên hằng năm yêu cầu Nhà nước cấp ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, hàng hóa thiết yếu rất lớn, trong khi ngoại tệ các doanh nghiệp xuất khẩu thu được thì doanh nghiệp chiếm dụng phần lớn, số kết nối cho ngân sách rất ít.

- Mất cân đối giữa tín dụng và huy động vốn vào ngân hàng: Do lãi suất tín dụng quá thấp và giữ nguyên trong một thời gian dài trong khi giá cả thị trường tăng ngày càng cao đã khiến lãi suất của ngân hàng trên danh nghĩa là "dương" nhưng trên thực tế là "âm".

Vì vậy từ DNNN đến tập thể, tư nhân đều đổ xô vào vay vốn của ngân hàng, bởi vay được càng nhiều càng có lợi do đồng tiền mất giá. Đầu năm vay 1 triệu đồng, cuối năm số tiền phải trả nợ ngân hàng giá trị thực tế chỉ còn khoảng 200.000 - 300.000 đồng.

Có chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nói với anh Đỗ Mười: "Đầu năm hợp tác xã vay tiền ngân hàng để mua cả con trâu, đến cuối năm số tiền phải trả nợ ngân hàng chỉ bằng đuôi trâu".

Ngược lại, do lãi suất tiền gửi vào ngân hàng thực tế "âm" nên không ai chịu gửi tiền vào ngân hàng vì chỉ một thời gian sau, đồng tiền mất giá thì gần như mất trắng số tiền gửi. Nhân dân không còn tin tưởng vào giá trị đồng tiền. Người có nhiều tiền đều đem mua vàng và hàng có giá trị để cất giữ trong gia đình. Các doanh nghiệp cũng không gửi tiền chưa dùng đến vào ngân hàng mà đem mua tư liệu sản xuất để cất giữ.

Vì vậy, mất cân đối giữa tín dụng của ngân hàng và vốn mà ngân hàng huy động được ngày càng nghiêm trọng. Ngân hàng phải phát hành thêm tiền mặt để cho vay. Lượng tiền mặt trên thị trường tăng rất nhanh, có năm tăng tới 300 - 400%.

Tác động cộng hưởng của các mất cân đối trên đây dẫn tới hậu quả là mất cân đối tiền, hàng ngày càng nghiêm trọng. Tiền ra khiến sức mua bằng tiền của xã hội tăng. Ngược lại, nguồn cung hàng hóa cho xã hội tuy có tăng do các chính sách thúc đẩy sản xuất của Đảng và Nhà nước nhưng vẫn thấp xa so với nhu cầu xã hội bằng tiền. Tiền nhiều mà hàng ít thì giá cả bị đẩy lên. Giá lên làm tăng nhu cầu tiền lưu thông, buộc ngân hàng phải phát hành thêm tiền. Tiền ra thêm lại đẩy giá lên. Đó là cái vòng luẩn quẩn xoáy trôn ốc làm cho lạm phát ngày càng nghiêm trọng, vì chỉ số lạm phát luôn luôn tương ứng với chỉ số phát hành tiền mặt.

(Còn nữa)

Theo Dân trí

Đồng chí Đỗ Mười và ngành Dầu khí Việt Nam
Quá trình công tác của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười
Ngày bình dị ở tư gia nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 146,800
Hà Nội - PNJ 143,800 146,800
Đà Nẵng - PNJ 143,800 146,800
Miền Tây - PNJ 143,800 146,800
Tây Nguyên - PNJ 143,800 146,800
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 146,800
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 14,580 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,480 ▲30K 14,780 ▲30K
NL 99.99 13,810 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,810 ▲30K
Trang sức 99.9 14,070 ▲30K 14,670 ▲30K
Trang sức 99.99 14,080 ▲30K 14,680 ▲30K
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,458 ▲3K 14,782 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,458 ▲3K 14,783 ▲30K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,431 ▲4K 1,456 ▲4K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,431 ▲4K 1,457 ▲4K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,416 ▲4K 1,446 ▲4K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,668 ▲396K 143,168 ▲396K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,111 ▲300K 108,611 ▲300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,988 ▲272K 98,488 ▲272K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,865 ▲244K 88,365 ▲244K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 7,696 ▼69031K 8,446 ▼75781K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,954 ▲167K 60,454 ▲167K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,458 ▲3K 1,478 ▲3K
Cập nhật: 06/11/2025 11:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16625 16894 17468
CAD 18135 18411 19026
CHF 31879 32260 32903
CNY 0 3470 3830
EUR 29660 29931 30957
GBP 33587 33975 34909
HKD 0 3255 3457
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14606 15193
SGD 19627 19908 20422
THB 726 789 843
USD (1,2) 26058 0 0
USD (5,10,20) 26099 0 0
USD (50,100) 26128 26147 26355
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,135 26,135 26,355
USD(1-2-5) 25,090 - -
USD(10-20) 25,090 - -
EUR 29,886 29,910 31,045
JPY 168.05 168.35 175.37
GBP 33,989 34,081 34,885
AUD 16,862 16,923 17,367
CAD 18,365 18,424 18,949
CHF 32,245 32,345 33,022
SGD 19,779 19,841 20,459
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.87 17.59 18.88
THB 775.31 784.89 834.92
NZD 14,605 14,741 15,089
SEK - 2,716 2,795
DKK - 3,999 4,115
NOK - 2,541 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,891.74 - 6,610.04
TWD 771.13 - 928.45
SAR - 6,919.55 7,243.55
KWD - 83,598 88,400
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,135 26,355
EUR 29,689 29,808 30,937
GBP 33,740 33,875 34,853
HKD 3,317 3,330 3,438
CHF 31,951 32,079 32,982
JPY 167.12 167.79 174.81
AUD 16,759 16,826 17,373
SGD 19,790 19,869 20,407
THB 789 792 827
CAD 18,315 18,389 18,921
NZD 14,638 15,136
KRW 17.48 19.11
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26110 26110 26355
AUD 16755 16855 17783
CAD 18312 18412 19423
CHF 32133 32163 33753
CNY 0 3657.6 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29825 29855 31583
GBP 33870 33920 35683
HKD 0 3390 0
JPY 167.56 168.06 178.57
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14691 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19762 19892 20622
THB 0 755.3 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14550000 14550000 14750000
SBJ 13000000 13000000 14750000
Cập nhật: 06/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,148 26,198 26,355
USD20 26,148 26,198 26,355
USD1 23,845 26,198 26,355
AUD 16,807 16,907 18,018
EUR 29,981 29,981 31,300
CAD 18,253 18,353 19,666
SGD 19,853 20,003 21,130
JPY 168.03 169.53 174.1
GBP 33,977 34,127 34,892
XAU 14,548,000 0 14,752,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/11/2025 11:45