Ổn định tài chính - động lực thúc đẩy tăng trưởng châu Á trở lại

16:48 | 08/04/2023

90 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
So với Mỹ và châu Âu, khu vực châu Á được đánh giá là có lạm phát và lãi suất thấp hơn, hệ thống tài chính được cải thiện nhiều, tiêu dùng trong nước cũng như nhu cầu xuất khẩu vững chắc.

Bước sang năm 2023, nhiều chuyên gia tin rằng nền kinh tế châu Á đã sẵn sàng tăng trưởng nhanh hơn hầu hết các nền kinh tế khác, với lập luận khu vực này sẽ bắt đầu tạo ra sự chênh lệch tăng trưởng so với các nền kinh tế thị trường phát triển.

Ở châu Á, tỷ lệ đảm bảo thanh khoản cao hơn 100%, các khoản vay có xu hướng thả nổi hơn là cố định và đặc quyền tiền gửi đa dạng hơn
Ở châu Á, tỷ lệ đảm bảo thanh khoản cao hơn 100%, các khoản vay có xu hướng thả nổi hơn là cố định và đặc quyền tiền gửi đa dạng hơn

Khu vực tài chính ổn định

Với những căng thẳng trong lĩnh vực ngân hàng gần đây ở Mỹ và châu Âu, các nhà đầu tư đã đặt ra câu hỏi, liệu những thách thức tương tự có thể xảy ra ở Châu Á hay không và với bối cảnh này, tăng trưởng của khu vực có thể vượt trội hơn các khu vực khác?

Chuyên gia kinh tế trưởng châu Á tại Morgan Stanley - Chetan Ahya đánh giá, sự phát triển gần đây đã làm cho tiềm năng tăng trưởng vượt trội của châu Á trở nên hấp dẫn hơn. Những thách thức về nguồn vốn ở các nước phát triển xuất hiện do các ngân hàng trung ương tăng lãi suất một cách mạnh mẽ nhằm chống lại lạm phát. Theo đó, tỷ giá đã tăng 4,75 điểm phần trăm ở Mỹ và 3,5 điểm phần trăm ở châu Âu trong chu kỳ này. Cả hai chu kỳ thắt chặt đều diễn ra gay gắt và có tốc độ nhanh nhất trong thời gian gần đây. Ngược lại, do lạm phát của châu Á đang ở mức bằng một nửa so với các thị trường phát triển, lãi suất tổng hợp chỉ tăng 1 điểm phần trăm.

“Một yếu tố quan trọng khác nữa là liên quan khu vực ngân hàng. Ở châu Á, tỷ lệ đảm bảo thanh khoản cao hơn 100%, các khoản vay có xu hướng thả nổi hơn là cố định và đặc quyền tiền gửi đa dạng hơn. Kết quả của việc này là trong khi các tiêu chuẩn cho vay có vẻ sẽ thắt chặt ở các thị trường phát triển làm ảnh hưởng đến tăng trưởng, thì rõ ràng châu Á không phải đối mặt với những thách thức tương tự..

Sức khỏe của hệ thống tài chính không phải là lý do duy nhất khiến tôi nghĩ châu Á vẫn có thể vượt trội hơn. Mà các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Indonesia, tất cả đều có các yếu tố kinh tế cụ thể, hỗ trợ nhu cầu trong nước và do đó, bảo vệ họ phần nào khỏi tác động lan tỏa tiêu cực tiềm ẩn từ sự tăng trưởng yếu hơn ở các thị trường phát triển”, chuyên gia tại Morgan Stanley giải thích.

Bên cạnh đó, việc mở cửa trở lại của Trung Quốc cũng là tiền đề cho phép nước này đạt mức tăng trưởng mục tiêu trong năm nay. Sự phục hồi ngược xu hướng này có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tăng trưởng của châu Á. Dữ liệu từ hai tháng đầu năm của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS) thông báo, doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng của nước này tăng 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái, đảo ngược sự sụt giảm trong 3 tháng trước đó. Đây là một chỉ số quan trọng về sức mua của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Ông Zhiwei Zhang,Chủ tịch kiêm Nhà kinh tế trưởng tại Pinpoint Asset Management nhận định: “Dữ liệu kinh tế nói trên xác nhận sự phục hồi ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang đi đúng hướng. Các số liệu nói trên cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc’’.

Có thể thấy, sự phục hồi của Trung Quốc chủ yếu được thúc đẩy bởi sự phục hồi trong tiêu dùng, do đó phần lớn gắn liền với việc mở cửa trở lại và sự phục hồi của thị trường lao động. Thị trường bất động sản cũng trên đà tích cực, với doanh số bán hàng tiếp tục tăng nhanh và doanh số bán hàng thứ cấp đang tiến gần đến mức của năm 2021. Các nhà hoạch định chính sách đã áp dụng cách tiếp cận ủng hộ tăng trưởng, ủng hộ doanh nghiệp và ưu tiên việc làm.

Hiện tại, lộ trình tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc đã giảm xuống dưới xu hướng trước Covid (được định nghĩa là mức tăng trưởng dự kiến trước Covid-19) trong giai đoạn 2021-2022, vì vậy nếu rủi ro suy giảm bắt đầu hình thành, các nhà hoạch định chính sách sẽ sẵn sàng hành động kịp thời để giải quyết mọi áp lực giảm đối với tăng trưởng. Trong bối cảnh đó, việc Trung Quốc bảo vệ xu hướng tăng trưởng của mình sẽ là chìa khóa để tạo ra sự bù đắp cho phần còn lại của khu vực.

Mục tiêu tăng trưởng trong tầm tay

Theo phân tích của chuyên đến từ Morgan Stanley, tại Nhật Bản, Ấn Độ và Indonesia, các nền kinh tế này sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh trong năm nay. Nền kinh tế Nhật Bản sẽ được hưởng lợi nhờ sự phục hồi của ngành du lịch, do đó sẽ được hỗ trợ đáng kể bởi việc mở cửa trở lại của Trung Quốc. Hơn nữa, các chính sách kinh tế vĩ mô cũng sẽ giữ cho nhu cầu của khu vực tư nhân được hỗ trợ và đặc biệt dẫn đến sự gia tăng chi tiêu vốn tư nhân.

Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã dự báo tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ ở mức 6,4% cho năm 2023-24. Ảnh: EPA-EFE
Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã dự báo tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ ở mức 6,4% cho năm 2023-2024. Ảnh: EPA-EFE

Đối với Ấn Độ, bảng cân đối kế toán của khu vực tài chính và phi tài chính đã được làm sạch trong những năm qua, khiến người đi vay và người cho vay an toàn hơn. Do đó, khu vực tư nhân được chuẩn bị sẵn sàng với khẩu vị rủi ro lành mạnh để mở rộng. Ấn Độ cũng đang được hưởng lợi từ một “cơn gió ngược” khác dưới hình thức tăng thị phần trong xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ toàn cầu, điều này đang xúc tác cho việc làm và đầu tư.

Tại Indonesia, rủi ro ổn định kinh tế vĩ mô đã được quản lý tốt, nghĩa là lãi suất không phải tăng nhiều như ở các nền kinh tế thị trường mới nổi khác, ngay cả khi giá nhiên liệu bán lẻ tăng. Do đó, nhu cầu trong nước vẫn mạnh mẽ trong bối cảnh khó khăn.

“Rủi ro đối với châu Á là nếu nền kinh tế Mỹ hạ cánh cứng. Nếu GDP cả năm của Hoa Kỳ giảm từ 1% trở lên, thì châu Á khó có thể thoát khỏi sự suy thoái. Nhưng trong trường hợp này, lạm phát sẽ giảm tốc, thậm chí còn nhanh hơn do giá cả hàng hóa có khả năng giảm và điều này sẽ tạo cơ hội cho các nhà hoạch định chính sách trong khu vực nới lỏng cả chính sách tiền tệ và tài khóa, điều này có thể mang lại sự phục hồi nhanh hơn”, ông Chetan Ahya dự báo.

Còn với Việt Nam, báo cáo “Triển vọng kinh tế Việt Nam và dự báo trong năm 2023-2024” được Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) công bố sáng 4/4 cho thấy, Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 6,5% như Chính phủ đã đề ra. Ông Andrew Jeffries, Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam khẳng định, trong bối cảnh này, ADB vẫn giữ nguyên lòng tin vào sự phát triển của Việt Nam.

"Hiện ADB đang có dự án đầu tư tại một số ngân hàng của Việt Nam và đến nay, chúng tôi vẫn chưa thấy những rủi ro nào mang tính hệ thống nào. Tương lai chúng tôi đang đưa ra những chiến lược mới để hỗ trợ tăng trưởng tại Việt Nam, giúp các bạn chuyển sang kinh tế xanh, thúc đẩy lĩnh vực tư nhân, đảm bảo công bằng xã hội. ADB luôn sẵn sàng đưa ra các khoản vay để hỗ trợ VIệt Nam và tôi nghĩ các đối tác phát triển lớn khác của Việt Nam cũng có chung quan điểm này", ông Andrew Jeffries bày tỏ lạc quan.

Đặc biệt, hoạt động du lịch và nhu cầu nội địa tăng mạnh mẽ đang thúc đẩy các nền kinh tế Đông Nam Á như Indonesia, Philippines và Việt Nam, với tăng trưởng dự báo đạt 4,7% trong năm nay và 5% vào năm 2024. Lạm phát khu vực sẽ giảm tốc xuống 4,2% vào năm 2023 và 3,3% vào năm 2024 sau khi đạt 4,4% vào năm ngoái. Áp lực chuỗi cung ứng giảm dần, điều kiện tiền tệ thắt chặt hơn và giá cả hàng hóa giảm được cho là sẽ định hình triển vọng phát triển của châu Á.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Bộ Tài chính đề xuất gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất năm 2023Bộ Tài chính đề xuất gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất năm 2023
HoSE công bố 74 mã chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch ký quỹHoSE công bố 74 mã chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch ký quỹ
Bất động sản thế chấp tại Agribank gần 2,3 triệu tỷ đồngBất động sản thế chấp tại Agribank gần 2,3 triệu tỷ đồng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,700 119,700
AVPL/SJC HCM 117,700 119,700
AVPL/SJC ĐN 117,700 119,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,810 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,800 11,140
Cập nhật: 28/06/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.700 116.500
TPHCM - SJC 117.700 119.700
Hà Nội - PNJ 113.700 116.500
Hà Nội - SJC 117.700 119.700
Đà Nẵng - PNJ 113.700 116.500
Đà Nẵng - SJC 117.700 119.700
Miền Tây - PNJ 113.700 116.500
Miền Tây - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.700
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.700
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.890 115.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.180 114.680
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.950 114.450
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.280 86.780
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.220 67.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.700 48.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.400 105.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.110 70.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.730 75.230
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.190 78.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.960 43.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.770 38.270
Cập nhật: 28/06/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,170 11,620
Trang sức 99.9 11,160 11,610
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,380 11,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,380 11,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,380 11,680
Miếng SJC Thái Bình 11,770 11,970
Miếng SJC Nghệ An 11,770 11,970
Miếng SJC Hà Nội 11,770 11,970
Cập nhật: 28/06/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16536 16805 17383
CAD 18574 18851 19474
CHF 32034 32416 33073
CNY 0 3570 3690
EUR 29918 30190 31224
GBP 35045 35439 36383
HKD 0 3193 3396
JPY 173 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15515 16106
SGD 19916 20198 20726
THB 716 779 833
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 28/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 28/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 28/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 28/06/2025 02:00