Nông sản Việt 'tắc' đường sang Trung Quốc

01:48 | 14/09/2019

292 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc giảm từ cuối năm 2018 đến nay, một phần do không đáp ứng các quy định mới của nước bạn. 

Tại cuộc họp tìm hướng tháo gỡ cho nông sản Việt xuất sang Trung Quốc ngày 13/9, ông Trần Thanh Hải - Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang nước láng giềng có dấu hiệu giảm từ cuối năm 2018 và tiếp diễn trong 8 tháng năm nay.

Số liệu của Bộ Công Thương cho biết, xuất khẩu nông thuỷ sản sang Trung Quốc đạt hơn 3,8 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm nay, giảm 9,2% so với cùng kỳ. Trong số này gạo giảm sâu nhất, 67,5%, đạt hơn 159,4 triệu USD; rau quả đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD, giảm hơn 8%; sắn giảm gần 10% so với cùng kỳ khi chỉ đạt trên 466 triệu USD...

Một trong những nguyên nhân là hàng nông sản Việt sang Trung Quốc sụt giảm, ùn ứ và "tắc" ở cửa khẩu do ảnh hưởng từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung. Ngoài ra, nước này cũng thay đổi chính sách thương mại và đưa ra loạt hàng rào kỹ thuật về kiểm soát chất lượng, kiểm dịch an toàn thực phẩm... với nông sản nhập khẩu. Chẳng hạn, Trung Quốc đưa ra yêu cầu quả chuối xuất sang nước này phải có hộp đóng gói đầy đủ, in nhãn bằng tiếng Trung; hay với dưa hấu, phía bạn yêu cầu phải dán mã truy xuất nguồn gốc... Hay họ áp hạn ngạch thuế quan và chỉ định cửa khẩu nhập với một số hàng nông sản, chủ yếu là trái cây qua các cửa khẩu nhất định như Quảng Tây, Vân Nam...

Thực tế, những quy định này đã được phía Trung Quốc thông báo từ giữa năm 2018, nhưng không nhiều doanh nghiệp nắm bắt.

"Đây là xu thế tất yếu và phù hợp với thông lệ quốc tế. Không riêng Trung Quốc mà nhiều quốc gia khác cũng đưa ra quy định kiểm soát chặt hơn chất lượng hàng nhập khẩu", ông Hải nói.

Điều đáng lo ngại hơn lại nằm ở phía nội lực sản xuất và cập nhật xu hướng sản xuất hiện đại của nền nông nghiệp trong nước. "Một số địa phương và doanh nghiệp chưa nhận thức được, vẫn giữ phương thức kinh doanh manh mún, nhỏ lẻ, dẫn đến tình trạng ùn ứ, ảnh hưởng đến chất lượng và bị ép giá", ông Hải nói.

Ông Trần Tuấn Anh - Bộ trưởng Công Thương nhận xét, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc hiện "thiếu chuyên nghiệp và phụ thuộc nhiều vào tiểu ngạch". Doanh nghiệp sản xuất cũng thiếu thông tin, giữ tập quán kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro, không ổn định về thị trường, dẫn đến tồn đọng, ùn ứ trong nước và ảnh hưởng đến tiến độ, hiệu quả xuất khẩu.

nong san viet tac duong sang trung quoc
Mực xà của Việt Nam xuất sang Trung Quốc nhưng bị ùn ứ ở cảng. Ảnh: Đắc Thành.

Hiện mới có 9 loại trái cây tươi của Việt Nam được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc là thanh long, xoài, nhãn, vải, chôm chôm, chuối, dưa hấu... Ông Lê Thanh Hoà – Phó cục trưởng Cục chế biến và phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) cho biết, cơ bản lượng xuất khẩu các loại quả này sang Trung Quốc vẫn có tăng trưởng, như chuối tăng gần 300%, thanh long hơn 55%... so với cùng kỳ. Nhưng một số loại trái cây vốn có lượng xuất khẩu lớn sang Trung Quốc lại chưa được cấp phép xuất khẩu chính ngạch.

"Tập quán làm ăn nhỏ lẻ chưa chuyển sang chuyên nghiệp đã "ăn sâu bám rễ", ảnh hưởng tới xuất khẩu khi các nước thay đổi chính sách. Nếu không thay đổi cách làm thì xuất khẩu sang thị trường này khó cải thiện", ông Tuấn Anh nói.

Là người trực tiếp tư vấn chính sách cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang Trung Quốc, bà Lê Hoàng Oanh - Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á - châu Phi (Bộ Công Thương), cho rằng cần xem xét xây dựng quy hoạch sản xuất từng loại nông sản cho thị trường xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ quy mô thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, xu thế thị trường thế giới...

"Doanh nghiệp cần bỏ tâm lý coi Trung Quốc là thị trường dễ tính, chuyển xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch những mặt hàng trái cây có thế mạnh, nâng cao chất lượng, truy xuất nguồn gốc của sản phẩm", bà lưu ý.

Đồng tình, Bộ trưởng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nói "không còn cách nào khác là phải thích nghi". Chuyện ùn, ứ, ế là do nền sản xuất hàng hoá chưa hiện đại, nông dân vẫn quen sản xuất, bán tươi là chính, trong khi nền sản xuất thế giới đã yêu cầu cao hơn. Bài học vải thiều của tỉnh Bắc Giang trong 2-3 năm gần đây là ví dụ. Mùa vụ 2019 sản lượng vải thiều của tỉnh này thực tế chỉ bằng 2/3 mùa vụ 2018, nhưng nhờ tổ chức sản xuất, kết nối bài bản với đối tác Trung Quốc nên giá trị xuất khẩu tăng 20-30%.

Theo ông Cường, Trung Quốc là thị trường tiềm năng, có dung lượng khổng lồ. Nông sản Việt Nam lại mang tính bổ trợ cho nông sản Trung Quốc. Do vậy, thời gian tới phải đẩy mạnh tháo gỡ các nút thắt, đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.

"Cứ bảo các bạn thay đổi phương thức nên khó khăn. Nhưng nếu làm tốt thì tôi nghĩ sẽ không có vấn đề gì. Ba "nhà" gồm Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân đều phải đồng hành, đồng bộ từ sản xuất, chế biến tới tổ chức thị trường, thì tự khắc sẽ sản xuất sẽ hiện đại, hiệu quả", ông Cường nhấn mạnh.

Theo VNE

Tàu chiến Mỹ thách thức yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Hoàng Sa
Ấn Độ sắp tập trận lớn gần biên giới Trung Quốc
Tàu chiến Mỹ mang tên lửa “nắn gân” Trung Quốc tại Thái Bình Dương
Tiêm kích tàng hình J-20 Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng F-35 Mỹ
Bắt giữ lượng lớn hàng Trung Quốc gắn mác Thái Lan, Hàn Quốc tuồn vào Hà Nội

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,400
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 74,300
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 7,525
Trang sức 99.9 7,310 7,515
NL 99.99 7,315
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 7,555
Miếng SJC Thái Bình 8,240 8,440
Miếng SJC Nghệ An 8,240 8,440
Miếng SJC Hà Nội 8,240 8,440
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 84,500
SJC 5c 82,500 84,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 84,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,900
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 75,000
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,100
Nữ Trang 99% 71,366 73,366
Nữ Trang 68% 48,043 50,543
Nữ Trang 41.7% 28,553 31,053
Cập nhật: 25/04/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,190 16,210 16,810
CAD 18,233 18,243 18,943
CHF 27,265 27,285 28,235
CNY - 3,437 3,577
DKK - 3,555 3,725
EUR #26,328 26,538 27,828
GBP 31,106 31,116 32,286
HKD 3,115 3,125 3,320
JPY 159.49 159.64 169.19
KRW 16.28 16.48 20.28
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,231 2,351
NZD 14,821 14,831 15,411
SEK - 2,259 2,394
SGD 18,102 18,112 18,912
THB 632.14 672.14 700.14
USD #25,135 25,135 25,487
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 25/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 07:00