Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 21/12/2022

19:52 | 21/12/2022

4,229 lượt xem
|
(PetroTimes) - Điện gió Việt Nam đã đạt mốc kỷ lục về vận hành với 3.386 MW; Châu Âu vượt châu Á về nhập khẩu LNG của Nga; Xuất khẩu dầu thô của Nga đã sụt giảm 54% trong tuần đầu bị trừng phạt… là những tin tức nổi bật về thị trường năng lượng trong nước và quốc tế ngày 21/12/2022.
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 21/12/2022
Trang trại điện gió tại huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Trungnamgroup

Điện gió Việt Nam đã đạt mốc kỷ lục về vận hành với 3.386 MW

Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) cho biết, gió Đông Bắc dù đến muộn nhưng đã và đang có những tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các khu vực tập trung điện gió như Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, khiến các nguồn điện gió trên cả nước đồng loạt phát cao, với công suất thường xuyên duy trì ở mức 1.500-2.500 MW và sản lượng điện bình quân đạt xấp xỉ 50 triệu kWh/ngày, cao hơn 140% so với cùng kỳ năm 2021.

Đặc biệt, trong các ngày 17 và 18/12, hệ thống điện quốc gia ghi nhận mức tổng công suất phát của các nguồn điện gió thường duy trì trên 3.000 MW, đạt cao nhất 3.386 MW vào lúc 15h20 ngày 17/12. Kỷ lục vận hành gần nhất là 3.077 MW vào ngày 5/2/2022. Hiện hệ thống có 4.667 MW điện gió đang nối lưới vận hành.

Với mức công suất mới này, các nguồn điện gió Việt Nam đã phát đồng thời được đến 85% công suất lắp đặt. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại, thách thức trong vận hành nguồn điện này, bởi khi gặp gió quá lớn (thường có tốc độ trên 21-22m/s), các turbine sẽ đạt tới giới hạn và phải ngừng hoạt động để đảm bảo an toàn.

EVN kiến nghị sớm điều chỉnh giá điện

Ngày 21/12, tại hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Phó Tổng giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh cho biết, giá bán lẻ điện đã được giữ ổn định gần 4 năm qua trong khi giá nhiên liệu sản xuất điện, tỷ giá đều tăng mạnh khiến EVN khó cân đối tài chính và chịu lỗ nặng trong năm 2022.

Tập đoàn ước lỗ 31.360 tỉ đồng. EVN đã báo cáo Chính phủ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các Bộ ngành cho phép điều chỉnh giá điện trong năm 2022 để giảm bớt khó khăn và có thể cân đối tài chính của EVN trong những năm tới.

Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp Nguyễn Hoàng Anh cho rằng, EVN lỗ khách quan do thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chi phí đầu vào tăng không ngừng, giá đầu ra không tăng, không đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh thì không ổn. Do đó, ông Nguyễn Hoàng Anh vừa đề nghị EVN tiết giảm chi phí hoạt động hơn nữa, vừa kiến nghị Chính phủ điều chỉnh giá điện.

Châu Âu vượt châu Á về nhập khẩu LNG của Nga

Báo Vedomosti trích dẫn báo cáo từ hãng tư vấn B1 cho biết khối lượng LNG của Nga xuất khẩu sang châu Âu (tính cả Anh và Thổ Nhĩ Kỳ) đã tăng 22% trong 11 tháng qua lên 20 tỷ m3. Lượng hàng giao đến Bỉ tăng 110% lên khoảng 5 tỷ m3, trong khi nguồn cung cho Pháp tăng hơn 50% lên 7,3 tỷ m3 và đến Tây Ban Nha tăng hơn 40% lên 4,5 tỷ m3.

Trong số các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc đã tăng nhập khẩu LNG của Nga thêm gần 30% lên 6,5 tỷ mét khối trong giai đoạn 11 tháng qua, trong khi Nhật Bản tăng nhập khẩu 1% lên 8,4 tỷ m3. Ở Trung Quốc, nguồn cung từ Nga đã tăng trong bối cảnh tổng lượng LNG nhập khẩu vào nước này giảm 20%, xuống còn khoảng 77 tỷ m3.

Nhà phân tích cấp cao Nikita Blokhin tại Alfa-Bank cho hay tình trạng gia tăng xuất khẩu LNG của Nga sang Liên minh châu Âu (EU) là do nguồn cung khí đốt qua đường ống đã giảm mạnh và được thay thế bằng khí hóa lỏng, theo các bước trong kế hoạch năng lượng toàn châu Âu.

Xuất khẩu dầu thô của Nga đã sụt giảm 54% trong tuần đầu bị trừng phạt

Các chuyến hàng dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga đã sụt giảm 1,86 triệu thùng/ngày, tương đương với 54%, sau khi phương Tây áp dụng các biện pháp trừng phạt nhắm vào nguồn doanh thu từ dầu mỏ của Moskva. Đây được cho là lời cảnh báo tiềm tàng dành cho các chính phủ khác trên khắp thế giới.

Cụ thể, trong tuần lễ kết thúc vào ngày 16/12 đánh dấu mốc tròn một tuần đầu tiên lệnh cấm có hiệu lực, tổng khối lượng từ Nga đã giảm 1,86 triệu thùng/ngày xuống còn khoảng 1,6 triệu thùng/ngày. Tỷ lệ trung bình trong bốn tuần cũng giảm xuống mức thấp kỷ lục mới của năm 2022.

Theo báo cáo của Bloomberg, các tín hiệu trên thị trường cũng cho thấy tình trạng thiếu hụt các chủ tàu sẵn sàng vận chuyển dầu của Nga từ một cơ sở xuất khẩu ở châu Á. Cùng lúc đó, các tập đoàn năng lượng khổng lồ như Shell và Exxon Mobil đã dừng sử dụng các tàu từng chở hàng hóa của Nga trước đây.

Quan chức Saudi Arabia khẳng định OPEC+ cắt giảm sản lượng dầu mỏ là đúng đắn

Ngày 20/12, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia Abdulaziz bin Salman cho hay, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và đối tác (OPEC+) đã gạt yếu tố chính trị ra khỏi quá trình ra quyết định cũng như các báo cáo đánh giá và dự báo của tổ chức này. Hãng thông tấn SPA dẫn lời ông Salman cho biết thêm, quyết định của OPEC+ cắt giảm sản lượng dầu mỏ đã chứng tỏ tính đúng đắn trong việc hỗ trợ ổn định thị trường và ngành dầu mỏ.

Theo ông Salman, "việc chơi đùa chính trị trong số liệu và dự báo, cũng như không duy trì tính khách quan thường gây hậu quả và làm mất uy tín. Trong bối cảnh có nhiều yếu tố bất ổn, OPEC+ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc duy trì sự chủ động và đi trước một bước".

Trước đó, tại cuộc họp ngày 4/12, OPEC+ đã nhất trí duy trì chính sách dầu mỏ như hiện tại, tức là giữ nguyên mức cắt giảm sản lượng dầu mỏ 2 triệu thùng/ngày, vốn được bắt đầu áp dụng từ tháng 11. Theo AFP, đây là đợt cắt giảm sản lượng lớn nhất của OPEC+ kể từ giai đoạn đỉnh điểm của đại dịch Covid-19 vào năm 2020.

Nga coi việc áp trần giá khí đốt không phải vấn đề kinh tế

Ngày 20/12, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak cho hay, Moscow coi việc áp trần giá khí đốt ở châu Âu là một quyết định chính trị, không phải vấn đề kinh tế. Đồng thời, theo Nga, các biện pháp trên chỉ dẫn đến tình trạng thiếu khí đốt trong khu vực.

Cụ thể, ông Novak nói: “Đối với mức giá trần được đưa ra, chúng tôi tin rằng đây là một quyết định chính trị tiếp theo, hoàn toàn không phải kinh tế”. Phó Thủ tướng Nga cũng cho biết, nước này chưa quyết định đưa ra phản ứng đối với việc Liên minh châu Âu (EU) áp giá trần đối với khí đốt của Nga.

Cũng trong ngày 20/12, một đơn vị thành viên của tập đoàn dầu khí quốc gia Nga Gazprom cho biết vẫn đang cung cấp đầy đủ khí đốt cho khách hàng thông qua các đường ống vận chuyển song song, sau khi xảy ra vụ nổ gây hư hại một phần đường ống Urengoi-Pomary-Uzhhorod.

Mỹ cho biết sẽ tiếp tục cứng rắn hơn nữa với giá trần dầu Nga

Ngày 20/12, trả lời phỏng vấn hãng Reuters, Thứ trưởng Tài chính Mỹ Adewale Adeyemo cho biết, Washington sẽ thảo luận với các đối tác và đồng minh về việc giảm hơn nữa mức giá trần đối với dầu của Nga.

Theo ông Adeyemo, mặc dù doanh thu của Liên bang Nga từ việc bán năng lượng bắt đầu giảm, nhưng tốc độ khai thác dầu vẫn như cũ. Trong tương lai, các quốc gia ủng hộ sáng kiến áp giá trần sẽ thảo luận về các biện pháp cứng rắn hơn.

Thứ trưởng Tài chính Mỹ cũng lưu ý rằng, Mỹ sẽ tiếp tục gây sức ép kinh tế đối với Nga, đặc biệt nhằm mục đích làm suy yếu khả năng đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng của nước này.

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 19/12/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 19/12/2022
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 20/12/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 20/12/2022

T.H (t/h)

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Hà Nội - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đà Nẵng - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Miền Tây - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Tây Nguyên - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,450 ▲220K 14,750 ▲150K
Trang sức 99.9 14,440 ▲220K 14,740 ▲150K
NL 99.99 14,450 ▲220K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,450 ▲220K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Thái Bình 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Nghệ An 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Hà Nội 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,456 ▲15K 14,762 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,456 ▲15K 14,763 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,437 ▲14K 1,459 ▲14K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,437 ▲14K 146 ▼1300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,414 ▲1274K 1,444 ▲1301K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 13,847 ▼123237K 14,297 ▼127287K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,961 ▲1050K 108,461 ▲1050K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,852 ▲89953K 98,352 ▲97378K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,743 ▲854K 88,243 ▲854K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,844 ▲817K 84,344 ▲817K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,871 ▲584K 60,371 ▲584K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16636 16905 17478
CAD 18240 18516 19127
CHF 32293 32676 33324
CNY 0 3470 3830
EUR 29991 30264 31288
GBP 34377 34769 35691
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14758 15344
SGD 19797 20078 20592
THB 726 789 842
USD (1,2) 26080 0 0
USD (5,10,20) 26121 0 0
USD (50,100) 26149 26184 26369
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,208 30,232 31,355
JPY 170.95 171.26 178.3
GBP 34,748 34,842 35,625
AUD 16,878 16,939 17,366
CAD 18,473 18,532 19,044
CHF 32,614 32,715 33,371
SGD 19,941 20,003 20,611
CNY - 3,645 3,739
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.09 17.82 19.12
THB 773.81 783.37 833.18
NZD 14,772 14,909 15,249
SEK - 2,725 2,803
DKK - 4,041 4,154
NOK - 2,559 2,632
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,848.63 - 6,556.57
TWD 777.22 - 934.47
SAR - 6,930.14 7,248.86
KWD - 83,828 88,663
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16770 16870 17475
CAD 18415 18515 19120
CHF 32500 32530 33417
CNY 0 3661.4 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30163 30193 31216
GBP 34638 34688 35801
HKD 0 3390 0
JPY 170.52 171.02 178.08
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14862 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19931 20061 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14530000 14530000 14730000
SBJ 14000000 14000000 14730000
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,175 26,225 26,369
USD20 26,175 26,225 26,369
USD1 23,859 26,225 26,369
AUD 16,824 16,924 18,045
EUR 30,316 30,316 31,647
CAD 18,366 18,466 19,785
SGD 20,014 20,164 21,190
JPY 171.01 172.51 177.15
GBP 34,731 34,881 35,666
XAU 14,408,000 0 14,612,000
CNY 0 3,540 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 13:00