Nhịp đập năng lượng ngày 13/6/2023

19:00 | 13/06/2023

6,667 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Khẩn trương nghiên cứu thay đổi nhiên liệu sản xuất điện; Nhiều thành phố Trung Quốc kêu gọi tiết kiệm điện; Pakistan dùng nhân dân tệ mua dầu giảm giá của Nga… là những tin tức nổi bật về năng lượng trong nước và quốc tế ngày 13/6/2023.
Nhịp đập năng lượng ngày 13/6/2023
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Khẩn trương nghiên cứu thay đổi nhiên liệu sản xuất điện

Bộ Công Thương đã tổ chức họp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, 3 Tổng công ty phát điện 1, 2, 3 cùng các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than về triển khai thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 cũng như lộ trình chuyển đổi năng lượng được nêu trong Quy hoạch Điện VIII.

Thông tin cuộc họp cho thấy, thực hiện chuyển đổi nhiên liệu từ đốt than sang amoniac và nhiên liệu sinh khối (hydrogen xanh) còn nhiều khó khăn, vướng mắc về công nghệ còn chưa hoàn thiện, khả năng cung cấp nhiên liệu còn hạn chế, giá biomass trên thị trường cao hơn giá than, chưa có cơ chế chính sách…

Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu các đơn vị nghiên cứu hợp tác và chủ động tìm kiếm các nguồn lực thay thế, các nguồn nhiên liệu thay thế như sinh khối, amoniac. Đồng thời giao Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo chủ trì với các đơn vị có liên quan tiếp tục nghiên cứu các cơ chế chính sách dựa vào những cam kết của các tổ chức quốc tế để đưa ra một số cơ chế chính sách ban đầu.

Trước đó, ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch Điện VIII) tại Quyết định số 500/QĐ-TTg. Trong đó quy định về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac với các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành 20 năm khi giá thành phù hợp và dừng các nhà máy có tuổi thọ hơn 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.

Công suất thủy điện khu vực Bắc Bộ vẫn thấp

Theo số liệu từ Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia (A0), trong ngày 12/6, tổng sản lượng huy động từ thủy điện là khoảng 138,3 triệu kWh, tăng gần 29% so với con số ngày 11/6 là khoảng 107,3 triệu kWh nhờ mưa lớn. Phụ tải toàn hệ thống điện ngày 12/6 đạt 817 triệu kWh. Trong đó miền Bắc ước khoảng 401,9 triệu kWh, miền Trung khoảng 76,3 triệu kWh, miền Nam khoảng 338,2 triệu kWh.

Báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp cũng cho biết, lưu lượng nước về các hồ trên cả nước ngày 12/6 tăng nhẹ so với hôm trước. Các hồ ở khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ có mức nước thấp, xấp xỉ mực nước chết. Tổng lưu lượng nước về các hồ thủy điện lớn miền Bắc tăng 28% so với ngày 11/6.

Tuy nhiên, lượng nước đổ về các hồ thủy điện khu vực Bắc Bộ không nhiều. Theo đại diện Nhà máy thủy điện Hòa Bình, lưu lượng nước đạt 103m, trong khi quy định mực nước tối thiểu là 81,9m nên công suất phát điện vẫn còn thấp. Trong khi đó, Nhà máy thủy điện Sơn La có lưu lượng về hồ đạt 320 m3/s, mực nước trên hồ thủy điện đạt 176,76m, nhưng lượng nước vẫn sát mực nước chết 176/175m nên vẫn dừng phát điện.

Nhiều thành phố Trung Quốc kêu gọi tiết kiệm điện

Theo hãng tin Global Times, các khu vực tây bắc, tây nam và miền trung Trung Quốc đang phải hứng chịu nhiệt độ cao kéo dài, trong khi khu vực phía nam và đông của quốc gia này vừa phải hứng chịu nhiệt độ cao, vừa phải trải qua những đợt mưa lớn, gây lo ngại thiếu điện.

Với nhiệt độ cao bắt đầu từ khá sớm, thời kỳ cao điểm tiêu thụ điện của Trung Quốc rất có thể sẽ kéo dài hơn trong năm 2023. Cụ thể, theo Hội đồng Điện lực Trung Quốc, phụ tải điện quốc gia cao nhất được dự đoán vào năm 2023 sẽ là 1,37 tỷ KW, tăng khoảng 80 triệu KW so với năm 2022. Tuy nhiên, nếu thời tiết cực đoan kéo dài trên diện rộng, phụ tải điện quốc gia cao nhất năm 2023 có thể tăng thêm khoảng 100 triệu KW so với năm 2022.

Lo ngại thiếu điện, chính quyền nhiều địa phương khuyến nghị tiết kiệm điện. Thành phố Mậu Danh ở phía nam tỉnh Quảng Đông, thành phố công nghiệp Giang Môn tại Quảng Đông hay tỉnh Hải Nam đều đã đưa ra một kế hoạch kêu gọi sử dụng ít năng lượng hơn trong thời gian cao điểm khi mức sử dụng nguồn cung tăng lên trong những tuần tới.

Pakistan dùng nhân dân tệ mua dầu giảm giá của Nga

Lô hàng dầu thô giảm giá đầu tiên của Nga đã đến cảng Karachi của Pakistan hôm 11/6. Bộ trưởng Dầu mỏ Pakistan Musadik Malik cho biết lô hàng này được thanh toán bằng đồng nhân dân tệ. Động thái này được xem là một sự thay đổi đáng kể trong chính sách thanh toán của Pakistan vốn do đồng USD chi phối.

Lô hàng dầu thô giảm giá đầu tiên của Nga chuyển đến cảng Karachi theo thỏa thuận mới được ký kết giữa Nga và Pakistan hồi đầu năm nay. Theo Bộ trưởng Malik, đây là thỏa thuận liên chính phủ đầu tiên giữa Pakistan và Nga, bao gồm 100.000 tấn dầu thô, trong đó 45.000 tấn đã cập cảng Karachi và số còn lại đang trên đường vận chuyển. Theo các báo cáo trước đó, Pakistan đồng ý với mức giá khoảng 50-52 USD/thùng thô của Nga.

Tỷ lệ hàng Nga xuất khẩu được thanh toán bằng nhân dân tệ tăng cao sau khi chiến sự Ukraine nổ ra. Các hãng xuất khẩu Nga hiện đang đẩy mạnh việc nhận thanh toán bằng nhân dân tệ, khoản vay của doanh nghiệp và tiền tiết kiệm của người dân cũng thực hiện bằng đồng tiền này.

Đức khẳng định việc xây dựng các trạm LNG mới trên bờ biển Baltic là cần thiết

Tại Hội nghị Kinh tế Ostdeutsches Wirtschaftsforum (OWF) diễn ra tại Bad Saarow, Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck cho biết nước này sẽ phải thu hẹp quy mô hoặc thậm chí ngừng sản xuất công nghiệp nếu việc vận chuyển khí đốt tự nhiên của Nga qua Ukraine dừng lại vào năm tới.

“Không có kịch bản chắc chắn vạch rõ mọi thứ sẽ diễn ra như thế nào”, ông Habeck nói. Bộ trưởng Kinh tế Đức cho rằng các nhà hoạch định chính sách ở Berlin cần tránh “lặp lại sai lầm tương tự khi cho rằng tình trạng thiếu năng lượng sẽ không ảnh hưởng đến nền kinh tế”.

Ông Habeck lý giải nếu Áo, Slovakia, Italy và Hungary cũng bị Nga cắt nguồn cung, Liên minh châu Âu (EU) sẽ yêu cầu Đức hỗ trợ theo các quy tắc chia sẻ khí đốt của khối, và điều này sẽ gây ra vấn đề cho người dùng công nghiệp. Ông nói rằng việc xây dựng các trạm khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) mới trên bờ biển Baltic là điều cần thiết để Berlin có thể nhập khẩu khí đốt từ Mỹ và Trung Đông. Tuy nhiên, cư dân địa phương và các nhóm hoạt động môi trường đã tìm cách ngăn chặn việc xây dựng.

Nhịp đập năng lượng ngày 11/6/2023Nhịp đập năng lượng ngày 11/6/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 12/6/2023Nhịp đập năng lượng ngày 12/6/2023

H.T (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 118,500
AVPL/SJC HCM 115,500 118,500
AVPL/SJC ĐN 115,500 118,500
Nguyên liệu 9999 - HN 10,820 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,810 11,140
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 114.000
TPHCM - SJC 115.500 118.500
Hà Nội - PNJ 111.000 114.000
Hà Nội - SJC 115.500 118.500
Đà Nẵng - PNJ 111.000 114.000
Đà Nẵng - SJC 115.500 118.500
Miền Tây - PNJ 111.000 114.000
Miền Tây - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 113.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 112.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 112.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 85.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 66.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 47.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 104.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 69.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 73.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 77.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 42.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 37.610
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,960 11,410
Trang sức 99.9 10,950 11,400
NL 99.99 10,520
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,170 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,550 11,850
Miếng SJC Nghệ An 11,550 11,850
Miếng SJC Hà Nội 11,550 11,850
Cập nhật: 19/05/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16064 16331 16925
CAD 18030 18305 18929
CHF 30295 30670 31327
CNY 0 3358 3600
EUR 28310 28576 29618
GBP 33605 33993 34949
HKD 0 3186 3390
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14935 15529
SGD 19399 19679 20218
THB 690 753 812
USD (1,2) 25660 0 0
USD (5,10,20) 25698 0 0
USD (50,100) 25726 25760 26115
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,085 34,177 35,100
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 30,618 30,713 31,573
JPY 175.08 175.4 183.22
THB 745.58 754.78 807.58
AUD 16,419 16,478 16,929
CAD 18,336 18,395 18,897
SGD 19,673 19,734 20,360
SEK - 2,622 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,831 3,963
NOK - 2,450 2,539
CNY - 3,563 3,660
RUB - - -
NZD 14,983 15,122 15,564
KRW 17.32 18.06 19.4
EUR 28,618 28,641 29,861
TWD 778.43 - 942.46
MYR 5,675.47 - 6,404.03
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,154 87,358
XAU - - -
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,471 28,585 29,687
GBP 33,905 34,041 35,012
HKD 3,256 3,269 3,375
CHF 30,547 30,670 31,579
JPY 174.44 175.14 182.42
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,657 19,736 20,276
THB 762 765 799
CAD 18,256 18,329 18,839
NZD 14,961 15,467
KRW 17.73 19.55
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25740 25740 26100
AUD 16288 16388 16956
CAD 18213 18313 18867
CHF 30579 30609 31494
CNY 0 3561.9 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28660 28760 29532
GBP 33942 33992 35103
HKD 0 3270 0
JPY 174.6 175.6 182.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15101 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19585 19715 20445
THB 0 724.3 0
TWD 0 845 0
XAU 11630000 11630000 11870000
XBJ 10500000 10500000 11870000
Cập nhật: 19/05/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,730 25,780 26,130
USD20 25,730 25,780 26,130
USD1 25,730 25,780 26,130
AUD 16,338 16,488 17,563
EUR 28,711 28,861 30,047
CAD 18,158 18,258 19,581
SGD 19,660 19,810 20,292
JPY 175.2 176.7 181.46
GBP 34,052 34,202 35,002
XAU 11,568,000 0 11,872,000
CNY 0 3,445 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/05/2025 02:00