"Nghẽn" trái phiếu, vốn ngân hàng cũng khó được khơi thông

08:20 | 06/06/2023

14 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Lãi suất đã giảm, song tín dụng vẫn không thể khơi thông. Thêm vào đó, dòng vốn trái phiếu bế tắc khiến doanh nghiệp ngày càng suy kiệt, nợ xấu gia tăng, gây áp lực ngược lại dòng vốn ngân hàng.

Sức ép lên ngân hàng

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) bắt đầu gặp khó khăn từ nửa cuối năm 2022 đến hiện tại sau các sự kiện lùm xùm xảy ra. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến kênh dẫn vốn quan trọng trên thị trường mà còn tác động đến dòng vốn ngân hàng.

"Nghẽn" trái phiếu, vốn ngân hàng cũng khó được khơi thông | DIỄN ĐÀN TÀI CHÍNH
"Nghẽn" trái phiếu, vốn ngân hàng cũng khó được khơi thông

Câu chuyện đặt ra lúc này là ngân hàng cho vay cũng khó mà không cho vay cũng khó...

Trong tháng 3/2022 vừa qua, có 1 tỷ USD TPDN phát hành nhưng đến tháng 5 thì gần như không có. Chúng ta kỳ vọng thị trường phục hồi, nhưng thực chất việc phát hành 1 tỷ USD của tháng 3 chỉ có hai cái tên trong số các doanh nghiệp phát hành và đối tác mua là các tổ chức, chứ không phải nhà đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Từ đầu năm tới nay, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 68.130 tỷ đồng (tăng 62,4% so với cùng kỳ năm 2022), chưa kể trái phiếu đến hạn thanh toán. Tổng giá trị trái phiếu đến hạn trong phần còn lại của năm 2023 là khoảng 200.000 tỷ đồng, hơn một nửa là nhóm ngành bất động sản. Thị trường bất động sản xấu đi, hàng loạt lĩnh vực liên quan cũng lao dốc theo khiến nợ xấu ngân hàng tăng nhanh hơn dự đoán, ngân hàng vì vậy càng siết chặt điều kiện vay.

Thị trường TPDN đáng lẽ phải là một kênh dẫn vốn rất tốt, như tại Hàn Quốc thị trường này có thể lên đến hàng nghìn tỷ USD, song tại ở Việt Nam lại gần như đang “đóng băng” hoàn toàn. Nhất là với các doanh nghiệp bất động sản từ trước đến nay đã phát hành TPDN rất lớn, đến lúc này họ phải phụ thuộc nhiều vào vốn của ngân hàng, trong bối cảnh các nguồn vốn huy động đều gặp khó.

Câu chuyện đặt ra lúc này là ngân hàng cho vay cũng khó mà không cho vay cũng khó... Sau các đợt tăng lãi suất cuối năm 2022 đã khiến lãi suất huy động ở hệ thống ngân hàng tăng lên, khi ngân hàng ôm tiền gửi với lãi suất cao, kỳ hạn dài, mà không cho vay sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng, còn cho vay không cẩn thận sẽ ảnh hưởng đến nợ xấu.

Nhìn rộng hơn, vấn đề của nền kinh tế hiện nay là đơn hàng thiếu, xuất nhập khẩu giảm, giải ngân đầu tư công chậm hơn so với tiến độ, tiêu dùng trong nước yếu. Nhưng có một điểm cực kỳ quan trọng đó chính là cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam bị lệch rất nhiều và phụ thuộc lớn vào bất động sản.

Như vậy có thể thấy, khi kênh TPDN bị mất niềm tin, phát hành cổ phiếu tra công chúng gặp khó, thì kênh ngân hàng cũng không thể dễ dàng. Điều này thể hiện bằng kết quả tăng trưởng tín dụng từ đầu năm 2023 đến nay vẫn thấp. Chỉ những ngân hàng có khẩu vị rủi ro cao sẽ vẫn cố gắng để cho vay, còn những ngân hàng khác thì thận trọng hơn, trích lập dự phòng nhiều hơn.

Đặc biệt các ngân hàng sẽ không nới lỏng điều kiện cho vay mà càng siết chặt hơn, để đảm bảo ngay từ đầu việc lựa chọn khách hàng, lựa chọn khoản vay nhằm giảm rủi ro tín dụng, sau đó mới tính đến lợi tức từ hoạt động cho vay. Điều này cũng giống như câu chuyện những ngày gần đây, trời nắng nóng nhưng lại cắt điện liên tục do nhu cầu điện tăng cao và cần đảm bảo nguồn điện.

Đáng chú ý, dư địa hạ lãi suất cũng không còn nhiều, có thể từ nay đến hết năm 2023, Ngân hàng Nhà nước sẽ hạ lãi suất điều hành thêm một lần nữa. Tuy nhiên, chúng ta còn phải quan sát các biến số đó là sức ép về lạm phát, mặc dù lạm phát năm nay không cao, nhưng chúng ta hoàn toàn không biết điều gì có thể xảy ra trong tương lai.

Cùng với đó là liệu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có tiếp tục tăng lãi suất hay không? Trong tháng 6 này, kỳ họp Ủy ban Thị trường mở của Fed sẽ diễn ra và giới đầu tư lại kỳ vọng Fed có thể sẽ tiếp tục tăng lãi suất 0,25%. Ngoài ra, sức ép từ thị trường lao động của Mỹ cũng là vấn đề khá lớn cho quyết định giữ nguyên lãi suất hoặc tăng lãi suất lần này của Fed. Nếu Fed tiếp tục tăng lãi suất cao, thì dư địa điều hành của Việt Nam sẽ bị thu hẹp hơn.

Khó phục hồi trong ngắn hạn

Theo tôi đánh giá, trong 3-5 năm tới, mức độ phục hồi về niềm tin trên thị trường TPDN chưa thể phục hồi ngay được, đặc biệt khi còn có những quả “bom nổ chậm” đối với TPDN bất động sản.

"Nghẽn" trái phiếu, vốn ngân hàng cũng khó được khơi thông | DIỄN ĐÀN TÀI CHÍNH
giải pháp để gỡ kẹt dòng vốn hiện nay là phải thúc đẩy đầu tư công và mở van cho thị trường TPDN khởi động trở lại

Có thể thấy, thị trường bất động sản còn khó thì trái phiếu cũng khó, vì dư nợ trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản đang chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy, nếu có điều gì xảy ra thì niềm tin trên thị trường trái phiếu chưa thể phục hồi được ngay.

Tuy nhiên, xét trên quan điểm tích cực hơn thì đây cũng là cơ hội để chúng ta thực sự cải cách, đổi mới toàn bộ thị trường TPDN, từ quy định đến cách phát hành, cách truyền thông thông tin làm sao để công khai minh bạch, để khi niềm tin phục hồi sẽ là một trong ba kênh dẫn vốn quan trọng bên cạnh thị trường cổ phiếu và ngân hàng.

Đối với các nhà đầu tư, khi mua TPDN phát hành riêng lẻ thì nên là nhà đầu tư chuyên nghiệp, bởi chúng ta phải có năng lực đánh giá, kể cả có năng lực đánh giá thì rủi ro hiện nay cũng đang cao. Trong khi lượng trái phiếu đáo hạn cuối quý 2 và quý 3 này, nhất là với doanh nghiệp bất động sản khá lớn, nên chúng ta phải cẩn trọng trong câu chuyện đầu tư.

Theo các chuyên gia, giải pháp để gỡ kẹt dòng vốn hiện nay là phải thúc đẩy đầu tư công và mở van cho thị trường TPDN khởi động trở lại. Với các dự án được gỡ vướng pháp lý, dòng vốn với doanh nghiệp sẽ được khai thông, khó khăn về dòng vốn với doanh nghiệp có thể sẽ được kiểm soát vào năm 2024. Còn với các dự án có vấn đề pháp lý phức tạp, khó khăn sẽ còn kéo dài và tiếp cận vốn vẫn là bài toán khó.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Ngân hàng đẩy mạnh mua lại Ngân hàng đẩy mạnh mua lại "bank-bond"
Cảnh báo tình trạng sở hữu chéo, thao túng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực ngân hàngCảnh báo tình trạng sở hữu chéo, thao túng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực ngân hàng
Chứng khoán tháng 6: Còn tác động của trái phiếu, rủi ro giảm đáng kểChứng khoán tháng 6: Còn tác động của trái phiếu, rủi ro giảm đáng kể

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 120,000 ▲500K 122,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 ▲50K 11,450 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 ▲50K 11,440 ▲50K
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 ▲500K 122.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 12,000 ▲50K 12,200 ▲50K
Cập nhật: 10/05/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 10/05/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 10/05/2025 16:00