Ngân hàng, bất động sản dẫn đầu “cuộc đua tỷ đô” hút vốn

06:47 | 20/07/2020

228 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chỉ trong nửa đầu năm nay đã có tới 156.000 tỷ đồng (tương ứng hơn 6 tỷ USD) trái phiếu doanh nghiệp được phát hành, dẫn đầu là các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản.

Sôi động hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp

Theo số liệu tổng hợp từ Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), các doanh nghiệp đã phát hành lên tới 156.000 tỷ đồng trái phiếu chỉ sau 6 tháng đầu năm 2020, tăng gần 33% so với cùng kỳ năm trước.

Ngân hàng, bất động sản dẫn đầu “cuộc đua tỷ đô” hút vốn
Phát hành trái phiếu trở thành kênh huy động vốn đắc lực của doanh nghiệp, tuy nhiên chứa đựng không ít rủi ro cho nhà đầu tư cá nhân

Tại báo cáo mới phát hành, các chuyên gia phân tích của Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đánh giá, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu sôi động trở lại kể từ quý 2/2020.

Theo ước tính của VDSC, tỷ lệ phát hành thành công sau 6 tháng đầu năm 2020 là khoảng 69% so với 67% của cả năm 2019. Tỷ trọng trái phiếu có kỳ hạn từ 3 đến 5 năm tăng mạnh khi chiếm hơn 60% so với khoảng 46% của cả năm 2019. Trong khi đó kỳ hạn ngắn dưới 3 năm ghi nhận tỷ trọng giảm xuống còn hơn 20%.

Về khía cạnh nhóm ngành, tổ chức tín dụng và bất động sản là hai ngành có tỷ trọng phát hành cao nhất với 30% và 29% tổng giá trị phát hành trong nửa đầu năm nay. Kỳ hạn phát hành bình quân của ngân hàng và bất động sản lần lượt là 4,5 và 3,8 năm.

Ngân hàng, bất động sản dẫn đầu “cuộc đua tỷ đô” hút vốn

Quý 2/2020 chứng kiến sự bứt phá của nhóm ngân hàng khi phát hành tới hơn 46.000 tỷ đồng trái phiếu so với chưa tới 1.000 tỷ đồng trong quý 1. Trong đó, riêng BIDV đã chiếm gần 1/3 số lượng tăng thêm. Ngành sản xuất chỉ chiếm 3,9% tỷ trọng giá trị phát hành 6 tháng đầu năm, tuy nhiên kỳ hạn phát hành bình quân của nhóm ngành này lên đến 7,8 năm.

Ở khía cạnh lãi suất, lãi suất danh nghĩa cho sản phẩm tương tự như năm 2019 biến động khá trái chiều ở từng doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, một điểm chung có thể nhận thấy là trái phiếu của nhóm ngân hàng có lãi suất giảm so với sản phẩm tương tự của năm 2019. Mục đích của nhóm này đa phần là phát hành để tăng vốn cấp hai khi trái phiếu thường có kỳ hạn dài và không tài sản đảm bảo.

Điển hình như với BIDV, lãi suất phát hành kỳ hạn 10 năm cuối 2019 bằng lãi suất tham chiếu (trung bình lãi suất tiết kiệm cá nhân kỳ hạn 12 tháng cho phương thức trả sau 4 ngân hàng lớn Agribank, BIDV, Vietcombank và VietinBank) cộng với 1,7% đến 1,8%. Tuy nhiên, đợt phát hành gần đây cho trái phiếu cùng kỳ hạn 10 năm của BIDV đề nghị lãi suất tham chiếu cộng với 1,3%.

Ngoài ra, với việc hạ lãi suất các kỳ hạn gần đây của các ngân hàng cũng khiến cho lãi suất tham chiếu hiện nay thấp hơn so với thời điểm cuối 2019.

Trái ngược với nhóm ngân hàng thì một số doanh nghiệp bất động sản như Công ty CP Tập đoàn Đất Xanh (DXG) và Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC) lại ghi nhận lãi suất cao hơn so với năm 2019. Trong khi Đất Xanh thường đề nghị lãi suất cố định thì Kinh Bắc thêm vào cả lãi suất thả nổi sau một năm đầu tiên phát hành cho kỳ hạn 2 năm.

Ngân hàng, bất động sản dẫn đầu “cuộc đua tỷ đô” hút vốn

Nghị định 81 sẽ ảnh hưởng tới huy động vốn từ trái phiếu nửa cuối năm

Theo nhận định của VDSC, trong bối cảnh tín dụng chỉ tăng khoảng 11% so với cùng kỳ vào thời điểm cuối tháng 6, số lượng trái phiếu phát hành tăng đến hơn 30% cho thấy sự hấp dẫn từ việc huy động vốn thông qua kênh trái phiếu doanh nghiệp.

Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn khá đơn sơ khi chưa có các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín. Điều này đã khiến cho Bộ Tài chính nhiều lần đưa ra cảnh báo các nhà đầu tư nhỏ lẻ khi tham gia vào thị trường này khi mà khối nhà đầu tư cá nhân nắm tới hơn 27% tổng khối lượng phát hành của 6 tháng đầu năm 2020 so với chỉ 9% khối lượng cả năm 2019.

Ngoài ra, 28 doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khối lượng vượt 3 lần vốn chủ sở hữu, trong đó 11 doanh nghiệp vượt 50 lần vốn chủ sở hữu.

Các chuyên gia VDSC nhận thấy nhu cầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao trong nửa cuối năm 2020 khi mà ngân hàng lo ngại xảy ra nợ xấu trong bối cảnh kinh tế đang bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, VDSC cho rằng, giá trị phát hành trong nửa cuối năm nay sẽ giảm so với nửa đầu năm do Nghị định 81 vừa được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/9/2020.

Điểm nhấn chính từ Nghị định mới này khiến cho việc phát hành sau tháng 9 bị ảnh hưởng nặng là việc đợt phát hành sau phải cách đợt phát hành liền trước 6 tháng.

Trong suốt 2 năm qua, rất nhiều doanh nghiệp chia nhỏ đợt phát hành để vừa dễ cho các nhà đầu tư tham gia vừa tuân thủ quy định giao dịch dưới 100 nhà đầu tư, thì với việc quy định mới có hiệu lực các doanh nghiệp sẽ buộc phải phát hành lô lớn. Khi đó, tổ chức phát hành có thể gặp khó khăn hơn để tìm kiếm những nhà đầu tư lớn.

Do đó, theo chuyên gia VDSC, sẽ không quá bất ngờ nếu khối lượng phát hành tăng mạnh từ nay tới trước khi Nghị định 81 có hiệu lực.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 117,200
AVPL/SJC HCM 114,900 117,200
AVPL/SJC ĐN 114,900 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 113.600
TPHCM - SJC 114.900 117.200
Hà Nội - PNJ 111.000 113.600
Hà Nội - SJC 114.900 117.200
Đà Nẵng - PNJ 111.000 113.600
Đà Nẵng - SJC 114.900 117.200
Miền Tây - PNJ 111.000 113.600
Miền Tây - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 37.440
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 11,410
Trang sức 99.9 10,980 11,400
NL 99.99 10,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,490 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,490 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,490 11,720
Cập nhật: 08/06/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 08/06/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/06/2025 06:00