Mối lo lạm phát đè nặng châu Á

21:18 | 03/07/2022

590 lượt xem
|
Châu Á đang đối mặt với nguy cơ lạm phát tăng cao khi giá lương thực, nhiên liệu tăng cao và tăng trưởng kinh tế thấp hơn dự báo.
Mối lo lạm phát đè nặng châu Á - 1
Một khu chợ ở Bangkok, Thái Lan (Ảnh: AP).

Theo các chuyên gia, do bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 cũng như giá dầu và lương thực tăng cao, châu Á đang trải qua một làn sóng lạm phát sẽ ảnh hưởng đến sinh kế và nền kinh tế.

Ông Rajiv Biswas, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại bộ phận nghiên cứu thị trường toàn cầu của S&P Global Market Intelligence, cho biết: "Áp lực lạm phát ở nhiều nền kinh tế châu Á đã tăng lên trong nửa đầu năm nay do giá dầu, khí đốt và than trên thế giới tăng cao, cũng như giá nông sản cao hơn".

"Đối với các công ty, sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu cũng đang làm gia tăng áp lực tăng giá đối với nguyên liệu và linh kiện. Nhiều ngân hàng trung ương châu Á đã đối phó với lạm phát gia tăng bằng cách thắt chặt chính sách tiền tệ trong nửa đầu năm 2022", chuyên gia trên nói thêm.

Ông Biswas cho biết, tốc độ lạm phát trên khắp châu Á rất khác nhau, trích dẫn tỷ lệ 7% ở Ấn Độ vào tháng trước. Ở những nơi khác tại khu vực Nam Á, các nước đang phát triển dễ bị tổn thương như Pakistan và Sri Lanka đã phải đối mặt với tình trạng bất ổn xã hội nghiêm trọng, một phần do giá cả tăng cao.

Theo báo cáo của tập đoàn dịch vụ tài chính toàn cầu Nomura, lạm phát lương thực ở Ấn Độ dự kiến sẽ vượt 9% trong nửa cuối năm nay. Các nhà kinh tế cũng cho biết lạm phát thương mại của Ấn Độ đang ở mức cao nhất trong 30 năm.

Tại Hàn Quốc, Ngân hàng Trung ương hôm 21/6 cho biết lạm phát ở nước này trong năm nay có thể sẽ đạt mức cao nhất trong vòng 14 năm. Theo Cơ quan Thống kê Hàn Quốc, giá tiêu dùng của quốc gia này đã tăng 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá các sản phẩm nông nghiệp và chăn nuôi cũng tăng mạnh, với giá thịt lợn tăng 20,7%, trong khi thịt bò nhập khẩu có giá cao hơn 27,9%.

Tại Thái Lan, lạm phát dự kiến sẽ tăng từ 4,9% lên 5,9%, với mức cao nhất trong 24 năm, theo Ngân hàng Thương mại Siam. Bộ trưởng Thương mại Thái Lan Jurin Laksanawisit ngày 16/6 cho biết, nước này sẽ đóng băng giá 46 mặt hàng, bao gồm mì gói, dầu thực vật và đồ hộp, trong 12 tháng tới.

Tại Lào, theo Cục Thống kê nước này, lạm phát cả năm ở Lào đã tăng lên 12,8% vào tháng trước, mức cao nhất trong 18 năm. Trong đó, giá nhiên liệu tăng 92,6%, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và sinh hoạt.

Tuy nhiên, áp lực lạm phát của chỉ số giá tiêu dùng ở châu Á vẫn ở mức trung bình so với ở Mỹ và các quốc gia Liên minh châu Âu (EU). Điều này là do Trung Quốc và Nhật Bản, với tỷ lệ lạm phát lần lượt là 2,1% vào tháng 5 và 2,4% vào tháng 4, chiếm khoảng 70% tổng quy mô kinh tế của châu Á, ông Biswas cho biết.

Hôm 15/6, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã tăng lãi suất chuẩn thêm 0,75 điểm phần trăm, lần tăng thứ ba trong năm nay và là lần tăng lớn nhất kể từ năm 1994. Chuyên gia Lili Yan Ing, cố vấn chính tại khu vực Đông Nam Á của Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á, cho biết vào cuối năm nay, tỷ lệ này dự kiến sẽ ở mức 3,4% và tăng lên 3,8% vào năm tới, 3,4% vào năm 2024 và 2,5% trong dài hạn.

Giáo sư Lawrence Loh, Giám đốc Trung tâm Quản trị và Bền vững tại Đại học Quốc gia Singapore, cho hay FED tăng lãi suất nhằm giảm áp lực cầu của lạm phát, nhưng chính việc này cũng tác động theo chiều ngược lại, bởi vì việc tăng lãi suất sẽ làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp.

"Vì lãi suất của Mỹ là tiêu chuẩn cho hầu hết thế giới, nếu nó tăng, mọi quốc gia sẽ tuân theo", ông nói và nhấn mạnh thêm rằng hành động như vậy chỉ càng khiến chi phí tài chính cao hơn.

Robert Carnell, nhà kinh tế trưởng và trưởng bộ phận nghiên cứu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tại ING, cho biết mức lạm phát ở các nước châu Á là khác nhau nhưng xét về mặt cân bằng, mức lạm phát của lục địa này thấp hơn ở một số nơi khác, bao gồm cả Mỹ và châu Âu.

Ông Carnell cho biết, nguyên nhân là do châu Á tương đối ít bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn nguồn cung, bao gồm cả sự gián đoạn đối với chất bán dẫn, cũng như sự gián đoạn về chi phí vận chuyển do đại dịch Covid-19.

Theo ông, các yếu tố khác liên quan đến xung đột Nga - Ukraine cần phải được tính đến. Ông cho rằng, một trong những yếu tố đó là châu Á nói chung là một khu vực tương đối phụ thuộc vào năng lượng.

"Hầu hết các quốc gia đều thâm hụt về năng lượng và tất nhiên giá năng lượng đã tăng vọt. Nga đang đóng cửa cung cấp khí đốt cho châu Âu, điều này gây áp lực lên phần còn lại của thế giới. Có rất nhiều sự cạnh tranh giữa châu Á và châu Âu, đặc biệt là đối với các nguồn khí đốt tự nhiên hoặc dầu thô sẵn có", ông Carnell nói.

Ông nói thêm rằng, tình trạng thiếu lương thực cũng đang gia tăng do cuộc xung đột ở Ukraine, với việc nguồn nhập khẩu lúa mì bị tắc nghẽn đã đẩy giá các sản phẩm thay thế, bao gồm gạo jasmine từ Thái Lan và gạo basmati từ Ấn Độ.

Tại Australia, Li Wei, một giảng viên tại Trường Kinh doanh Đại học Sydney, cho biết xung đột Ukraine chắc chắn đã đẩy giá hàng hóa tăng cao, đặc biệt là giá lúa mì và năng lượng, vì Nga là nhà xuất khẩu khí đốt và lúa mì lớn nhất thế giới, còn Ukraine là quốc gia đứng ở vị trí thứ năm.

Mọi việc đang thực sự đáng lo khi vào ngày 8/6, một báo cáo của Liên hợp quốc cảnh báo thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng giá cả sinh hoạt nghiêm trọng nhất trong một thế hệ.

Theo Dân trí

Lạm phát Lạm phát "nóng" nhất 40 năm, người dân Mỹ chi tiêu chắt bóp
Lạm phát tại Việt Nam có thực sự thấp?Lạm phát tại Việt Nam có thực sự thấp?
Giá vàng hôm nay (ngày 3/7): Chịu áp lực tăng lãi suất, giá vàng tuần tới khó bứt pháGiá vàng hôm nay (ngày 3/7): Chịu áp lực tăng lãi suất, giá vàng tuần tới khó bứt phá
Thủ tướng yêu cầu tiếp tục tập trung xử lý các vấn đề, dự án tồn đọngThủ tướng yêu cầu tiếp tục tập trung xử lý các vấn đề, dự án tồn đọng
GDP quý II khởi sắc mạnh, ước tính tăng gần 8%GDP quý II khởi sắc mạnh, ước tính tăng gần 8%

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16486 16754 17332
CAD 18161 18437 19053
CHF 32034 32416 33063
CNY 0 3470 3830
EUR 29882 30155 31183
GBP 33965 34355 35281
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14473 15061
SGD 19725 20006 20528
THB 732 795 849
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16735 16835 17760
CAD 18359 18459 19474
CHF 32248 32278 33873
CNY 0 3687.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30057 30087 31815
GBP 34221 34271 36037
HKD 0 3390 0
JPY 165.33 165.83 176.35
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14712 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19878 20008 20736
THB 0 761.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 09:00