Mai ngày còn được mấy người 'kể Khan'!
![]() | Lên Tây Nguyên... nhìn voi tuyệt chủng! |
Từ sưu tầm, nghiên cứu
Không phải gần đây giới nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước mới quan tâm đến sử thi Tây Nguyên. Mà từ rất sớm, ngay từ năm 1927; tại thủ đô Pari của Pháp, nhà dân tộc học người Pháp L.Sabatier đã công bố công trình nghiên cứu của mình là Sử thi Đăm Săn bằng song ngữ Ê Đê - Pháp.
Đây được coi là kết quả nghiên cứu, sưu tầm đầu tiên về sử thi Tây Nguyên, gây tiếng vang trong giới nghiên cứu văn hóa dân gian (Folklore) cả thế giới. Vào thời điểm đó, “Sử thi Đăm Săn” được xếp ngang hàng với các tác phẩm anh hùng ca nổi tiếng như: “Iliat và Ôđixê” của Hy Lạp, “Bài ca chàng Rô Lăng” của Pháp. Đến năm 1963, tại Hà Nội, trên cơ sở những kết quả sưu tầm ban đầu, văn học nước nhà đã xuất bản 5 tác phẩm sử thi Tây Nguyên, mà chủ yếu là của đồng bào dân tộc Ê Đê, gồm: Xing Nhã, Dăm Di, Khinh Dú, Dăm Đơroan và Y Pao.
![]() |
Một buổi hát kể sử thi ở Đắk Lắk |
Nhưng, việc nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch, xuất bản sử thi Tây Nguyên chỉ thực sự được quan tâm và thực hiện một cách bài bản kể từ năm 1998, khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), “Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc biệt, từ năm 2001 đến 2007, triển khai Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản Sử thi Tây Nguyên” với tổng kinh phí 18 tỉ đồng, công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch, xuất bản Sử thi Tây Nguyên đã được những thành tựu quan trọng.
Với sự tham gia tích cực của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), cùng các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hòa và Bình Phước; giới nghiên cứu đã sưu tầm được 801 tác phẩm sử thi với tổng cộng 5.679 băng ghi âm loại 90 phút, quay 15 bộ phim tư liệu về diễn xướng sử thi, chụp 6.000 bức ảnh về hát kể sử thi.
Đến thời điểm hiện nay, đã phiên âm 123 tác phẩm, dịch nghĩa 115 tác phẩm, xuất bản được 75 bộ sách Sử thi Tây Nguyên in song ngữ Việt và tiếng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên và đang tiến hành công tác chuẩn bị xuất bản thêm 21 bộ sách sử thi nữa.
Ngoài các sử thi nổi tiếng như: “Đăm Săn”, “Xing Nhã”, “Dăm Di”, “Khing Jú”, “M’Drông Dăm” (của người Ê Đê), các nhóm nghiên cứu còn phát hiện và sưu tầm 3 bộ sử thi liên hoàn đồ sộ (còn gọi là sử thi chuỗi hay sử thi phổ hệ), đó là “Ót N’rông” của người M’nông; “Đăm Giông” của người Ba Na; và “Dông” của người Xê Đăng. Mỗi bộ sử thi liên hoàn này gồm trên dưới 100 tác phẩm có sự liên kết khá hoàn chỉnh và được các chuyên gia đánh giá là những sử thi có độ dài nhất của thế giới, sánh ngang với những sử thi đồ sộ của nước ngoài như Ra-ma-y-a-na, Ka-lê-va-la… Đặc biệt, tỉnh Kon Tum, trước đây xác định là “vùng trắng” sử thi, thì qua việc thực hiện dự án đã có hai bộ sử thi liên hoàn của người Ba Na và Xê Đăng được phát hiện, sưu tầm.
Có thể nói, việc “điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản Sử thi Tây Nguyên” với một khối lượng đồ sộ kể trên, đã vượt xa so với chỉ tiêu ban đầu. Sự “bội thu” này không chỉ làm bất ngờ các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước; mà còn là tiếng vang, là sức hút mạnh mẽ với các nhà nghiên cứu ở nước ngoài. Nhưng buồn thay, những di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên vẫn đang đứng trước nguy cơ mai một ngay trên quê hương của chính mình.
Đến thực trạng buồn
Sở dĩ Sử thi Tây Nguyên có sức sống mãnh liệt, là bởi nó là nguồn cội phản ánh sinh động cuộc sống, sự đấu tranh sinh tồn của con người trước thiên tai, địch họa; thể hiện ước nguyện, phẩm chất, nghị lực của con người trong quá trình lao động, sản xuất.
Sử thi Tây Nguyên còn độc đáo ở chỗ, nó ra đời, phát triển, lưu truyền từ đời này qua đời khác bằng hình thức truyền khẩu. Vì vậy, có thể khẳng định, đây là sử thi sống, đòi hỏi khi diễn xướng (kể Khan) phải có nghệ nhân hát kể, phải có người nghe và nhất là phải có không gian diễn xướng, mới làm cho sử thi sống động, có hồn.
![]() |
Nghệ nhân Y Dhin niê, xã Ea tul, huyện Cư M’gar, đang dạy hát kể sử thi |
Không gian diễn xướng của Sử thi Tây Nguyên là rừng thiêng, buôn làng, nhà dài, nhà rông, bến nước, nương rẫy, lễ hội. Trước đây, sử thi Tây Nguyên không thể thiếu trong đời sống của đồng bào các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Cũng vì lẽ ấy, nên với bà con các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên xa xưa có câu “Cuộc sống thiếu tiếng chiêng, vắng lời Khan (diễn xướng, hay hát kể sử thi), chẳng khác nào thiếu cơm, thiếu muối!”.
Nhưng những năm gần đây, nhất là trước ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai, cùng những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, đã làm cho nhiều không gian diễn xướng Sử thi Tây Nguyên bị thu hẹp dần, thậm chí có những không gian đã mất đi vĩnh viễn.
Lên Tây Nguyên hôm nay khó có thể tìm được những đêm hát kể sử thi đầy mê hoặc. Tại sao vậy? Xin thưa không gian diễn xướng, hay nói cách khác là “đất sống” cho sử thi dường như đã biến mất khỏi cuộc sống đương đại. Rừng thu hẹp dưới sự tàn phá của con người; những ngôi nhà dài như tiếng chiêng ngân nay chỉ còn trong ký ức; người biết hát sử thi chỉ còn trên đầu ngón tay. Trong số 368 nghệ nhân biết hát kể Sử thi Tây Nguyên đã được lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu “nghệ nhân dân gian”, thì số người còn lại chỉ “trên đầu ngón tay”. Người biết hát kể sử thi thì như “lá vàng trên cây”.
Mới đây lên Đắk Lắk công tác, tôi cùng Kiều Bình Định, phóng viên báo Quân đội nhân dân thường trú ở Nam Tây Nguyên; đã cùng với các anh ở Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch (VH-TT&DL) Đắk Lắk, làm cuộc điền giã về các buôn làng. Phải nói rằng, cuộc sống mới, nông thôn mới ở Đắk Lắk đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của những buôn làng hẻo lánh xa xôi. Kiến trúc hiện đại đã thay thế hầu hết các ngôi nhà truyền thống; điện sáng lấp lánh trong nhà, ngoài đường, biển bảng quảng cáo xanh xanh, đỏ đỏ nhan nhản trên các trục đường chính. Tiếng nhạc xập xình chát chúa phát ra từ những cặp loa mở hết công suất ở quán xá ven đường.
Anh Y Kô Niê, Phó trưởng phòng Nghiệp vụ Văn hóa, Sở VH-TT&DL Đắk Lắk, buồn buồn nói với tôi rằng: “Nhiều buôn làng đồng bào mình không còn nếp nhà dài, không còn bến nước, không còn chiêng. Không gian rừng thiêng bị tàn phá, các lễ hội cũng mai một dần trước tiếng nhạc xập xình này…”. Giọng anh nghèn nghẹn: “Diễn xướng Sử thi Tây Nguyên phải có không gian, thì lời diễn xướng mới có hồn, mới đi vào lòng người. Cái nhạc mới nó làm mất đi sự độc đáo, sức hấp dẫn và lan tỏa của Sử thi Tây Nguyên mất rồi”.
Đúng vậy, “cơn lốc” của nền “văn minh” đương đại; nào là nhạc trẻ, phim ảnh bạo lực, nhạc rap, hiphop… đã đẩy sử thi vào cõi “cô đơn” như cây rừng sót lại trên những quả đồi trọc. Người già nhớ sử thi chỉ biết lẩm nhẩm một mình bên đốm lửa le lói ở góc nhà. Còn lớp trẻ, nói không quá, thì đang quay lưng lại với văn hóa truyền thống chạy theo các thứ văn hóa mới đang du nhập sâu rộng và có sức hút như ma túy “rủ rê” con nghiện!
Từ chỗ là “món ăn” không thể thiếu như gạo, như muối trong đời sống hằng ngày. Từ chỗ sau mỗi mùa nương rẫy đồng bào Tây Nguyên lại tổ chức lễ hội “mùa ăn năm uống tháng”, để người kể và người nghe sử thi hội ngộ. Từ chỗ Sử thi Tây Nguyên vốn gắn liền với văn hóa nương rẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi rất nhanh chóng.
Le lói những hy vọng
Nhà nghiên cứu văn hóa Trương Bi, thành viên nhóm điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản Sử thi Tây Nguyên nhận định: Kết quả Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản Sử thi Tây Nguyên” cho thấy, địa bàn tỉnh Đắk Lắk (nay gồm hai tỉnh ở Nam Tây Nguyên là Đắk Lắk và Đắk Nông) là nơi lưu giữ kho tàng Sử thi Tây Nguyên vô cùng phong phú.
Tại Đắk Lắk, đã tiến hành điều tra, khảo sát 110 xã thuộc 11 huyện, kết quả có 21 nghệ nhân Ê Đê, 19 nghệ nhân M’nông biết hát kể sử thi (kể Khan), đồng thời đã sưu tầm được 67 tác phẩm sử thi Ê Đê, 108 tác phẩm Sử thi M’nông, góp phần quan trọng vào việc xuất bản, công bố 75 bộ sách Sử thi Tây Nguyên.
Đánh giá về Sử thi Tây Nguyên, tại nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, GS.TS Nguyễn Xuân Kính nhận định: “Đây là kho tàng sử thi vào loại phong phú, đồ sộ hiếm có trên thế giới!”. Cũng từ hội thảo khoa học này, giới nghiên cứu văn hóa dân gian và đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đã đặt vấn đề: Làm thế nào đưa Nghệ thuật truyền khẩu sử thi trở về với đời sống sinh hoạt văn hóa của các buôn làng Tây Nguyên, nhằm phát huy giá trị Sử thi Tây Nguyên trong đời sống cộng đồng?
Trao đổi với chúng tôi xung quanh việc bảo tồn, phát huy giá trị sử thi Tây Nguyên trong đời sống văn hóa tinh thần người dân Tây Nguyên hiện nay, anh Bùi Văn Khối, Trưởng phòng Nghiệp vụ Văn hóa (Sở VH-TT&DL Đắk Lắk) lo ngại: Điều đáng lo nhất hiện nay là số nghệ nhân biết hát kể, có khả năng phiên âm, biên dịch, chuyển ngữ Sử thi Tây Nguyên còn quá ít ỏi và hầu hết đã ở cái tuổi “xưa nay hiếm”.
Trước thực trạng ấy, nếu chúng ta không tranh thủ sưu tầm những tác phẩm sử thi còn lại trong trí nhớ của các nghệ nhân, thì sẽ không còn cơ hội. Vì vậy, việc làm cấp thiết hiện nay là trên cơ sở 368 nghệ nhân biết hát kể Sử thi Tây Nguyên đã được lập hồ sơ đề nghị phong tặng Danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”, ngành văn hóa các tỉnh Tây Nguyên cần thống kê lại xem hiện nay ai đã về tổ tiên, ai còn sống, để tranh thủ sự hỗ trợ của các nghệ nhân khi mà thời gian, sức khỏe và trí tuệ của họ còn cho phép tiến hành công tác sưu tầm sử thi.
Một tín hiệu vui, hiện nay tỉnh Đắk Lắk đang xúc tiến xây dựng kế hoạch và chính sách hỗ trợ, khuyến khích các nghệ nhân truyền dạy hát kể sử thi cho thế hệ sau bằng việc đưa sử thi vào giảng dạy ở các trường dân tộc nội trú, lập các câu lạc bộ nghệ nhân ở buôn làng.
Ngành văn hóa tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian Việt Nam (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa Việt Nam), tổ chức lớp truyền dạy hát kể sử thi Ê Đê cho 12 học viên, trong đó phần lớn là những cán bộ là người Ê Đê đang công tác tại xã Ea Tul và huyện Cư M’gar. Được đánh giá là lớp học truyền dạy hát kể sử thi Ê Đê đầu tiên được tổ chức bài bản và có hiệu quả nhất ở tỉnh Đắk Lắk.
“Tuy vậy, cái khó hiện nay không chỉ ở chỗ đào tạo người kế tục hát kể sử thi mà còn làm sao tạo ra lượng người nghe sử thi, bởi không có người nghe thì nghệ nhân không thể hát kể. Lúc đó, sử thi chỉ tồn tại trên trang giấy in mà không thể “sống” trong cộng đồng”, anh Y Kô Niê, Phó trưởng phòng Nghiệp vụ Văn hóa Sở VH-TT&DL Đắk Lắk nói như vậy.
Trả gấp sử thi về đời sống cộng đồng
Để sử thi đi vào đời sống văn hóa tinh thần của người Tây Nguyên, ý kiến của những người làm công tác nghiên cứu và quản lý văn hóa cho rằng: Đối với 75 bộ sách Sử thi Tây Nguyên in song ngữ Việt và tiếng các dân tộc thiểu số đã được xuất bản và 21 tác phẩm đang chuẩn bị xuất bản, cần tiếp tục biên tập thành những tập truyện tranh cung cấp cho các trường học vùng dân tộc thiểu số tại chỗ, phục vụ đối tượng là bạn đọc thiếu nhi các dân tộc bản địa Tây Nguyên.
![]() |
Nghệ nhân Dieu Klung người góp công lớn trong sưu tầm, biên tập Sử thi Tây Nguyên |
Chuyển các bộ sử thi từ sách qua băng, đĩa CD cấp cho các buôn làng để phát thường xuyên trên hệ thống đài truyền thanh phục vụ bà con. Đầu tư kinh phí chuyển thể các bộ sử thi từ “lời Khan” thành phim hoạt hình, phim truyện công chiếu rộng rãi trên truyền hình, hoặc trong các buổi chiếu phim tại buôn làng.
Nên chọn hát kể Sử thi Tây Nguyên là loại hình nghệ thuật đưa vào các cuộc liên hoan dân ca, dân vũ trong nước, khu vực và quốc tế nhằm giới thiệu rộng rãi tới cộng đồng thế giới về sự đồ sộ, phong phú, độc đáo của Sử thi Tây Nguyên. Tiếp tục tổ chức những hội thảo khoa học mang tầm khu vực và quốc tế về Sử thi Tây Nguyên.
Mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế, tạo thêm cơ hội để cộng đồng quốc tế tiếp cận, hiểu rõ giá trị văn hóa to lớn của sử thi Tây Nguyên. Qua đó, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao khi các tỉnh Tây Nguyên và Bộ VH-TT&DL trình UNESCO công nhận nghệ thuật truyền khẩu Sử thi Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Tất cả những đề xuất trên đây, theo chúng tôi là cần thiết. Nói một cách ngắn gọn là đúng, rất đúng nhưng chưa đủ. Nói chưa đủ, bởi sức sống của sử thi nằm ngay trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Muốn sử thi tồn tại vĩnh hằng, phải trả sử thi về đúng với đời sống thực của nó. Đời sống thực ấy là cần tập trung khôi phục không gian diễn xướng sử thi, như không gian rừng thiêng, nương rẫy, nhà dài, nhà rông, nhà mồ, bến nước, lễ hội. Thiếu đi những điều kiện ấy, dù có sưu tầm, biên soạn công phu đến mấy, thì đấy chỉ là “di sản” trong bảo tàng, trong kho sách mà thôi!
Trao đổi với chúng tôi, ông Y Wái Byă, Giám đốc Sở VH-TT&DL Đắk Lắk cho biết: Thống kê mới đây tại 587 buôn của người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ toàn tỉnh Đắk Lắk hiện có 2.307 bộ chiêng, 220 bến nước, 2.608 nhà dài, 863 người biết nói lời nói vần (hát kể sử thi, hát dân ca). Nghe, thì đây là con số vui. Nhưng thực ra, đấy chỉ là những số liệu toán học chưa nói lên được điều gì.
Nhìn vào 863 người, gọi là biết hát kể sử thi; hỏi rằng có được mấy người như nghệ nhân Y Wang ở buôn Triă, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar; nghệ nhân Điểu Klung ở buôn Tul A, xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn (hiện là người thuộc nhiều sử thi nhất Tây Nguyên). Đã ở vào tuổi 75, nghệ nhân vẫn nhớ và có thể hát kể được 120 sử thi M’nông. Ông Y Wái Byă thở dài “không có được mấy người đâu”. Đấy là chưa nói đến cách hát, cách kể sử thi sao cho có hồn, có điệu. Chỉ một tác phẩm thôi cũng có thể kể mênh mang thâu đêm suốt sáng, kể từ ngày này sang ngày khác, kể hết đêm này nối đêm khác. Giọng người kể lúc trầm hùng như thác đổ, khi réo rắt như tiếng đàn, khi nhẹ êm như gió thoảng…
Trong buổi trò chuyện với chúng tôi, nghệ nhân Y Wang trăn trở: “Thế hệ trẻ ngày nay không đam mê sử thi cũng là do ngay từ nhỏ họ đã không có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu sử thi như thế hệ cha ông. Và bởi, buôn làng bây giờ đã không còn những đêm lễ hội, những đêm rượu cần tràn ngập lời kể Khan như trước đây. Vì vậy, cần phải tổ chức các lớp tìm hiểu ý nghĩa và truyền dạy sử thi”.
Theo chúng tôi, điều cần thiết nhất lúc này cần tranh thủ những nghệ nhân, người cao tuổi trong các buôn làng biết hát kể sử thi để mở các lớp truyền dạy hát kể sử thi cho thế hệ trẻ, tạo cho họ có cơ hội tìm hiểu giá trị của sử thi, từ đó thổi vào tâm hồn lớp trẻ ngọn lửa say mê vốn văn dân gian quý báu của tổ tiên, ông bà để lại.
Cùng với đó, cần sớm phục dựng lễ hội truyền thống, phục dựng không gian cho việc diễn xướng sử thi. Và nên đưa việc bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó có sưu tầm sử thi, bảo tồn không gian diễn xướng sử thi thành một tiêu chí để đánh giá, công nhận “buôn văn hóa”. Chỉ có như vậy sử thi Tây Nguyên mới có đất sống đích thực.
Trung Bình
Năng lượng Mới 460