Kinh tế Việt Nam - Nhiều tín hiệu lạc quan

09:08 | 06/10/2020

202 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo nhận định của các chuyên gia, tình hình kinh tế quý IV/2020 sẽ khả quan, tăng trưởng kinh tế cả năm 2020 sẽ đạt 2-3%, tương đồng với các dự báo của các tổ chức quốc tế về mức độ phục hồi kinh tế Việt Nam sau dịch Covid-19.
kinh-te-viet-nam-nhieu-tin-hieu-lac-quan-1
Ngày 16-9-2020, lô sản phẩm cà phê của Việt Nam được xuất khẩu sang một số nước châu Âu theo Hiệp định EVFTA

Tổng cục Thống kê vừa họp báo công bố tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2020. Theo đó, tăng trưởng GDP quý III ước tính đạt 2,62%, cao hơn quý II (0,39%) nhưng vẫn thấp hơn quý I (3,68%). Kết quả này giúp GDP 9 tháng tăng 2,12%.

Trong quý III, kinh tế có dấu hiệu khởi sắc hơn quý II. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,93%; công nghiệp và xây dựng tăng 2,95%; dịch vụ tăng 2,75%. Tính chung 9 tháng năm 2020, các khu vực kinh tế này tăng lần lượt 1,84%, 3,08% và 1,37%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn và dịch bệnh, nhưng đã có những giải pháp ứng phó kịp thời, trở thành “bệ đỡ” của nền kinh tế trong khó khăn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm cho xã hội.

Mặc dù khu vực dịch vụ tăng thấp do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid-19, tuy nhiên vẫn có những lĩnh vực duy trì tăng trưởng dương, trong đó, bán buôn và bán lẻ tăng gần 5%, hoạt động tài chính - ngân hàng - bảo hiểm tăng 6,68%. Ngược lại, ngành vận tải, kho bãi giảm 4%, dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm hơn 17%.

Về tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động 9 tháng năm 2020 vẫn tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2019.

Dù chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19, nhưng đa số doanh nghiệp chọn tạm ngừng kinh doanh thay vì rời khỏi thị trường. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh tăng tới 82%, đạt 38.700 doanh nghiệp. Tuy nhiên, số doanh nghiệp ngừng hoạt động, chờ thủ tục giải thể giảm 2,4%, còn số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể chỉ tăng 0,1%.

Theo khảo sát, gần 46% doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đánh giá xu hướng quý cuối năm sẽ tốt hơn, 19% dự báo khó khăn và 35,4% dự báo ổn định.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2020 đạt 202,86 tỉ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu 71,83 tỉ USD, tăng 20,2%, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, trở thành động lực cho tăng trưởng xuất khẩu. Tính riêng quý III, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 80,07 tỉ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 68,54 tỉ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2020, Việt Nam xuất siêu 16,99 tỉ USD. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,52 tỉ USD, khu vực FDI (bao gồm cả dầu thô) xuất siêu 27,51 tỉ USD.

Ngoài ra, CPI bình quân 9 tháng tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất trong 5 năm gần đây.

kinh-te-viet-nam-nhieu-tin-hieu-lac-quan
Đầu tư công sẽ được giải ngân trong quý IV/2020 là một trong những giải pháp góp phần tăng trưởng kinh tế

Theo ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng, Tổng cục Thống kê, công nghiệp chế biến, chế tạo tuy không tăng cao nhưng tiếp tục giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 9 tháng.

Tổng cục Thống kê cho biết, ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng rõ ràng từ tác động của dịch Covid-19. Ngay trong quý I/2020, khi chưa chịu ảnh hưởng trực tiếp của dịch Covid-19, tăng trưởng ngành công nghiệp vẫn đạt 5,1%. Tuy nhiên, bước sang đầu quý II, khi các nền kinh tế thế giới đóng cửa bởi dịch, các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, sản xuất trong nước bị ảnh hưởng mạnh, tăng trưởng ngành công nghiệp chỉ đạt 1,1%. Trong tháng 4, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp giảm mạnh nhất, ước tính giảm 13,3% so với tháng 3 và giảm 10,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên cũng trong quý II, khi cả nước bước sang giai đoạn vừa phòng, chống dịch bệnh vừa khôi phục và phát triển kinh tế, hoạt động sản xuất công nghiệp đã có tín hiệu tích cực. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5 đã tăng 11,2% so với tháng 4, mặc dù vẫn giảm 3,1% so với cùng kỳ năm 2019.

Với những dấu hiệu tích cực đó, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp 9 tháng năm 2020 ước đạt 2,69% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%; quý III tăng 2,34%).

Tính chung 9 tháng năm 2020, Việt Nam xuất siêu 16,99 tỉ USD. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,52 tỉ USD, khu vực FDI (bao gồm cả dầu thô) xuất siêu 27,51 tỉ USD.

Mặc dù, dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới, tuy nhiên, với những nỗ lực trong phòng, chống dịch bệnh và khôi phục, phát triển kinh tế, nhiều tổ chức quốc tế đã dự báo Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng dương so với mức tăng trưởng âm của nhiều nước trên thế giới.

Tổng cục Thống kê dự báo tăng trưởng kinh tế trong quý IV sẽ đạt mức cao, giúp tăng trưởng kinh tế cả năm 2020 của Việt Nam đạt mức 2-3%. Lý do là kinh tế thế giới được dự báo đang phục hồi dần sẽ làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực và đang được các cấp, các ngành, doanh nghiệp tích cực triển khai có thể giúp Việt Nam khôi phục hoạt động xuất khẩu vào châu Âu - thị trường truyền thống lớn của Việt Nam.

Theo các chuyên gia, để kinh tế thời gian tới đạt tốc độ tăng trưởng tốt hơn, Chính phủ cần tiếp tục đưa ra gói hỗ trợ đủ lớn và hiệu quả để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, phục hồi kinh tế, trong đó, tập trung vào đối tượng doanh nghiệp, cải cách quy trình, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kịp thời.

Cùng với đó, cần hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong việc tìm thị trường nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng, linh kiện thay thế, tháo gỡ khó khăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời vận động người dân ưu tiên dùng hàng trong nước, ủng hộ doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn khó khăn.

Phương Nam

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 17:45