Kinh tế Việt Nam 2014: 10 điểm sáng - 3 thách thức

11:15 | 31/12/2014

658 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Năm 2014, cùng với đà khởi sắc của kinh tế thế giới, với việc triển khai quyết liệt các giải pháp chỉ đạo điều hành đúng hướng, kịp thời, trong đó xuyên suốt là Nghị quyết 01 của Chính phủ, Việt Nam cũng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, hoàn thành cơ bản các mục tiêu KT-XH tổng quát của Quốc hội và Chính phủ. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan, bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2014 đã đạt được 10 điểm sáng nhưng vẫn đối mặt với 3 thách thức cần giải quyết trong năm 2015.

Nền kinh tế với nhiều “điểm sáng”

Tiếp đà tăng trưởng năm 2013, nền kinh tế Việt Nam năm 2014 đã có những chuyển biến tích cực. GDP năm 2014 ước tính tăng 5,98% so với năm 2013. Sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi, chỉ số IIP cả năm 2014 ước tăng 7,6%, cao hơn mức tăng 5,9% năm 2013 nhờ các biện pháp hỗ trợ cắt giảm lãi suất, giãn, hoãn thuế, ưu đãi, tăng đầu tư công của Chính phủ cho các doanh nghiệp.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2014 ước giảm 0,24% so với tháng trước khi giá xăng dầu tiếp tục được điều chỉnh giảm mạnh. CPI bình quân năm 2014 tăng 4,09% so với năm 2013, mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Mục tiêu kiềm chế lạm phát hoàn thành tốt hơn dự kiến nhờ sự phát huy tác dụng của các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa từ đầu năm cũng như giá cả nhiên liệu thế giới (xăng, dầu) giảm mạnh trong nửa cuối năm 2014 và lộ trình tăng giá hàng hóa cơ bản tại Việt Nam đã không xảy ra trong năm.

Xuất khẩu năm 2014 ước đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với 2013 và đạt ~103% kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao gần gấp 2 lần kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 101,6 tỷ USD (gồm cả dầu thô), tăng 15,2% so với cùng kỳ. Nhập khẩu năm 2014 ước đạt 148 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm 2013 và đạt 95,7% kế hoạch cả năm, chủ yếu là tư liệu sản xuất, máy móc, phụ tùng nguyên vật liệu. Cán cân thương mại năm 2014 ước tiếp tục thặng dư 2,0 tỷ USD, đây là mức thặng dư cao nhất trong những năm qua, tuy nhiên chưa bền vững do phần giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu thấp, xuất khẩu nông sản sụt giảm.

Giải ngân FDI ước đạt 12,35 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2013. Trong khi đó, FDI đăng ký ước đạt 20,23 tỷ USD giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2014 ước đạt 5 tỷ USD, bằng 77% so với mức 6,5 tỷ USD năm 2013. Lượng kiều hối vào Việt Nam 2014 ước đạt 12-13 tỷ USD, tăng 10% so với năm với 2013 và là mức kỷ lục từ trước tới nay.

Thị trường chứng khoán năm 2014 trải qua nhiều biến động, thậm chí có một số thời điểm hoảng loạn như hồi đầu tháng 5 do “sự kiện biển Đông”. Nhưng nhìn chung, TTCK đã có 1 năm khởi sắc, chỉ số VN-Index vượt đỉnh 5 năm vào thời điểm cuối tháng 8/2014 và chứng kiến những phiên có thanh khoản lên tới 400 triệu đơn vị cổ phiếu, giá trị hơn 6.600 tỷ đồng trên cả 2 sàn. Đến thời điểm ngày 26/12/2014, chỉ số VN-Index tăng 5,7%, HNX Index tăng 19,6% so với cuối 2013; lượng vốn huy động qua TTCK khoảng 240.000 tỷ đồng.Thị trường trái phiếu có một năm giao dịch sôi động trên cả hai thị trường. Tính đến trung tuần tháng 12/2014, trên thị trường sơ cấp đã huy động khoảng 224.000 tỷ TPCP, đạt hơn 84% nhiệm vụ huy động vốn năm 2014, giao dịch của khối nội chiếm 85-90% khối lượng giao dịch của toàn thị trường.

Nhìn chung, thị trường BĐS đã có những diễn biến khả quan hơn khi giao dịch khá sôi động, đặc biệt ở các phân khúc nhà ở trung cấp và bình dân đã giúp các doanh nghiệp tiếp tục giải phóng được hàng tồn kho. Theo tổng hợp của Bộ Xây dựng, tính đến ngày 20/11/2014, tổng giá trị tồn kho BĐS còn khoảng 77.811 tỷ đồng, giảm 50.737 tỷ đồng (tương đương giảm 39,47%) so với quý I/2013 và giảm 16.647 tỷ đồng (giảm 17,62%) so với cuối 2013. Trong năm 2014, nhiều văn bản, chính sách liên quan đến BĐS cũng đã được Chính phủ và các cơ quan quản lý ban hành. Điển hình, là văn bản luật (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua trong năm gồm Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật kinh doanh bất động sản. Như vậy, năm 2014 không chỉ đánh dấu diễn biến tích cực của thị trường BĐS mà còn là năm có nhiều bước tiến cụ thể trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý của ngành.

Để có được những kết quả này, ngay từ đầu năm Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP với 9 nội dung chính bao quát toàn bộ các lĩnh vực kinh tế xã hội và ngoại giao, trong đó về điều hành kinh tế có 3 mục tiêu chính: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; và Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, năm 2014 cũng ghi nhận những tồn tại và thách thức của nền kinh tế Việt Nam. Đó là: Sức cầu yếu, chất lượng tăng trưởng chưa cao, Đầu tư và chi tiêu công tăng, gia tăng nợ công, Xử lý nợ xấu đạt kết quả nhưng còn nhiều khó khăn.

Triển vọng 2015

Trong năm 2015, triển vọng kinh tế Việt Nam được dự báo cụ thể như sau: Kinh tế tăng trưởng ổn định; Chính phủ tiếp tục triển khai chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng, đẩy mạnh phục vụ thị trường nội địa; Chính phủ tiếp tục đầu tư xây dựng CSHT, phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo, phát triển KHCN và nguồn nhân lực; Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra theo chiều hướng tích cực, TPP được ký kết, hợp tác Việt Nam với châu Âu, ASEAN và Nga được triển khai tích cực; Chất lượng công tác xây dựng pháp luật, cải cách thủ tục hành chính được củng cố; và Tái cơ cấu nền kinh tế có những điểm “chốt” tích cực: nợ xấu giảm dần, số DNNN CPH tăng, chất lượng đầu tư công, năng lực DNNN được nâng cao. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức như chất lượng tăng trưởng chưa cao; nợ công tiếp tục tăng gia tăng và ở mức cao; xử lý nợ xấu vẫn còn là thách thức cần tập trung xử lý.

Trong năm 2015, dự báo mặt bằng giá cả trong nước sẽ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: Sức ép đối với mặt bằng giá cả tiếp tục tăng lên do tăng tổng phương tiện thanh toán và sự cải thiện của tổng cầu; Chính phủ tiếp tục triển khai chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng, đẩy mạnh phục vụ thị trường nội địa; các mặt hàng do nhà nước quản lý như điện, than, dịch vụ công tiếp tục được điều chỉnh theo lộ trình đưa các giá mặt hàng này theo thị trường. Tổng phương tiện thanh toán dự kiến tăng 16-18%, tín dụng tăng 13-15%. Trên cơ sở đó, dự báo lạm phát năm 2015 sẽ dao động ở mức 4-4,5%, đây là mức hợp lý, cân đối với mục tiêu tăng trưởng, hướng đến mục tiêu lạm phát tăng khoảng 5% Chính phủ đặt ra.

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, với việc hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới cũng như các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu ngày càng được hoàn thiện; dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2014 sẽ tăng trưởng 13-15% và đạt mức 163-166 tỷ USD. Trong khi đó, do  có nhiều nhà máy nhiệt điện đi vào hoạt động, nhu cầu nhập khẩu than tăng cao;  các hiệp định thương mại được ký kết, các doanh nghiệp trong nước và FDI sẽ tăng cường nhập khẩu máy móc để đón bắt cơ hội;  nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động hết công suất, nhu cầu nhập khẩu dầu thô tăng cao; kim ngạch nhập khẩu năm 2015 dự kiến khoảng 169-172 tỷ USD. Do đó, cán cân thương mại có khả năng thâm hụt khoảng 6-8 tỷ USD.

Về thu hút FDI, ODA, kiều hối, Năm 2015 nguồn vốn FDI giải ngân sẽ tiếp tục tăng và có thể đạt mức 13-14 tỷ USD. Trong đó, Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ tiếp tục là các quốc gia dẫn đầu về quy mô vốn đầu tư vào Việt Nam. Mặc dù các nước như Nhật Bản, Thụy Sỹ vẫn cam kết nâng cao mức ODA cho Việt Nam, đồng thời EU cam kết tiếp tục tăng 30% vốn ODA cho Việt Nam trong 5 năm tới, nhưng nhìn chung năm 2015 vốn ODA sẽ tiếp tục xu hướng giảm, dự kiến ở mức 4-4,5 tỷ USD. Về kiều hối, dự kiến tiếp tục tăng khả quan trong thời gian tới, giúp Việt Nam tiếp tục là một trong những quốc gia thu hút kiều hối tốt nhất thế giới. Uớc tính lượng kiều hối sẽ đạt khoảng 13-14 tỷ USD trong năm 2015 và có xu hướng tập trung vào kênh tiền gửi ngân hàng, đầu tư sản xuất kinh doanh và mua bất động sản.

Theo dự báo của NHNN, năm 2015 tăng trưởng tín dụng có thể ở mức 13 - 15%. Đây được xem là mức hợp lý phù hợp với dự báo khác liên quan đến chỉ số kinh tế vĩ mô và đáp ứng nhu cầu vốn cần của nền kinh tế. Đồng thời, NHNN quyết liệt chỉ đạo hoàn thành tái cơ cấu các TCTD yếu kém còn lại, kiểm soát chặt và giảm sở hữu chéo, phối hợp đưa nợ xấu về 3% tổng dư nợ; và tiếp tục giám sát quá trình lành mạnh hóa các TCTD.

Năm 2015, để đạt được mục tiêu Quốc hội đề ra, TTNC đề xuất Chính phủ cần thực hiện quyết liệt nhiệm vụ trọng tâm là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn và vững chắc hơn năm 2014; Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh.

PV (tổng hợp)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,849 15,869 16,469
CAD 18,005 18,015 18,715
CHF 27,001 27,021 27,971
CNY - 3,367 3,507
DKK - 3,497 3,667
EUR #25,898 26,108 27,398
GBP 30,738 30,748 31,918
HKD 3,041 3,051 3,246
JPY 159.76 159.91 169.46
KRW 16.23 16.43 20.23
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,203 2,323
NZD 14,567 14,577 15,157
SEK - 2,244 2,379
SGD 17,814 17,824 18,624
THB 629.23 669.23 697.23
USD #24,563 24,603 25,023
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 20:00