Kinh tế Trung Quốc liên tiếp chịu đòn giáng chỉ trong vài ngày

05:57 | 21/10/2018

331 lượt xem
|
Chứng khoán chạm đáy, tăng trưởng thấp nhất gần một thập kỷ đang tạo thêm gánh nặng cho lãnh đạo Trung Quốc, trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Mỹ. 

Ngày 18/10, chỉ số Shanghai Composite trên sàn chứng khoán Thượng Hải (Trung Quốc) xuống đáy 4 năm vì bị bán tháo. Giá đồng Nhân dân tệ cũng xuống đáy 2 năm, sau khi Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) hạ giá NDT tham chiếu thêm 0,25% so với USD. Giới phân tích nhận định ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy đồng tiền này có thể phá vỡ ngưỡng 7 NDT một USD - mốc chưa từng đạt từ trước khủng hoảng tài chính 2008.

Cùng hôm đó, Tổng thống Mỹ - Donald Trump tiếp tục đưa cuộc chiến thương mại với Trung Quốc sang chiến trường mới, khi tuyên bố rút khỏi một hiệp ước về bưu chính, mà họ cho là giúp công ty Trung Quốc có lợi thế không công bằng so với doanh nghiệp Mỹ. Mỹ có thể không rút đi nếu tái đàm phán được theo hướng có lợi hơn. Tuy nhiên, động thái này có thể vẫn ảnh hưởng đến các công ty Trung Quốc, khi làm tăng giá vận chuyển hàng đến Mỹ qua đường bưu điện.

Đến sáng hôm qua (19/10), Trung Quốc chính thức công bố GDP quý III, với tốc độ tăng trưởng chỉ 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái – thấp nhất kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu 2009. Để trấn an tâm lý hoảng loạn ngày càng tăng trên thị trường chứng khoán, giới lãnh đạo tài chính Trung Quốc, từ Thống đốc, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Ngân hàng và Bảo hiểm, đến Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán, đều đồng loạt ra thông báo kêu gọi nhà đầu tư bình tĩnh.

kinh te trung quoc lien tiep chiu don giang chi trong vai ngay

Người dân mua đồ tại một khu chợ ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Ảnh: AFP

Giới hoạch định chính sách kinh tế Trung Quốc giờ chẳng khác nào đang đi trên dây. Để củng cố vị thế đàm phán của nước mình trong thương mại với Mỹ, họ cần chặn đứng đà bán tháo đã khiến chứng khoán nước này mất 3.000 tỷ USD trong 6 tháng qua, đồng thời kích thích tăng trưởng nội địa mà không được từ bỏ mục tiêu giảm đòn bẩy trong nền kinh tế.

“Trung Quốc đang chịu sức ép trên nhiều mặt trận”, Michael Every – Giám đốc Nghiên cứu các thị trường tài chính châu Á tại Rabobank nhận xét, “Nói một cách logic thì tất cả những việc này sẽ ép Trung Quốc phải đạt được một thỏa thuận. Nhưng tôi không cho rằng họ sẽ làm thế đâu”.

Đầu phiên hôm qua, chỉ số Shanghai Composite đi xuống sau thông tin về GDP. Dù vậy, đến phiên chiều, nó đã bật tăng trở lại và đóng cửa tăng 2,6%. Nhà đầu tư cho rằng một số quỹ có sự hỗ trợ của chính phủ đã nhảy vào thị trường để hiện thực hóa tuyên bố can thiệp của các nhà hoạch định chính sách.

Dù vậy, thị trường chứng khoán Trung Quốc vẫn là tệ nhất thế giới năm nay, khi vốn hóa đã mất gần bằng Brazil, Ấn Độ và Nga cộng lại. Chứng khoán Trung Quốc giảm điểm chủ yếu do lo ngại về thương mại và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đà giảm tháng này mới tăng tốc do làn sóng bán tháo của nhà đầu tư trước áp lực giải chấp.

Báo cáo GDP quý III càng khiến nhà đầu tư lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc. Sản lượng công nghiệp yếu và “tình hình thế giới trầm trọng” là các yếu tố chính khiến tăng trưởng quý III chậm lại.

Tuy vậy, giới phân tích cho rằng Trung Quốc vẫn còn lý do để lạc quan. Tăng trưởng doanh số bán lẻ tháng 9 bất ngờ cao hơn dự báo. Cộng với hàng loạt biện pháp kích thích gần đây của Trung Quốc, như hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, nó có thể kéo tăng trưởng lên cao trở lại. Các chính quyền địa phương cũng đang huy động 1.350 tỷ NDT từ trái phiếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang phải nhượng bộ nỗ lực giảm đòn bẩy trong nền kinh tế.

Ngoài các vấn đề trong nước, thách thức bên ngoài với Trung Quốc cũng đang tăng lên. Hồi đầu tháng, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, lần đầu tiên trong hơn 2 năm. Nguyên nhân là rủi ro từ tăng thuế nhập khẩu đã bắt đầu xuất hiện.

Lãi suất tại Mỹ tăng, đồng đôla mạnh lên và tiền tệ các nước mới nổi biến động mạnh càng khiến Trung Quốc lúng túng, trong bối cảnh ông Trump đe dọa tăng thuế nhập khẩu với hàng Trung Quốc lên 25% từ đầu năm sau.

“Đây là một vòng luẩn quẩn”, Andrew Polk – đồng sáng lập hãng nghiên cứu Trivium China (Bắc Kinh, Trung Quốc) nhận xét, “Thách thức từ các thị trường mới nổi gây sức ép lên Trung Quốc. Sự giảm tốc của Trung Quốc lại tạo gánh nặng cho các thị trường mới nổi. Tăng trưởng của Trung Quốc sẽ tiếp tục chậm lại trong năm 2019, chỉ quanh 6%, theo dự báo của chúng tôi. Hiện tại chưa có cách rõ ràng nào để thoát ra khỏi vòng xoáy này”.

Ngoài việc rút khỏi hiệp ước bưu chính, Mỹ còn bất đồng với Trung Quốc tại một phiên họp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tại Geneva (Thụy Sĩ) tuần này, về vấn đề cải tổ hệ thống giao thương toàn cầu. Phó đại diện thương mại Mỹ - Dennis Shea cho rằng WTO cần kiềm chế việc Trung Quốc lạm dụng thương mại và cân nhắc lại các quyền ưu tiên cho Trung Quốc với tư cách một nước đang phát triển. Đại sứ Trung Quốc - Zhang Xiangchen thì khẳng định Mỹ không thể chỉ nhắm vào một đối tượng và Bắc Kinh sẽ không ủng hộ bất kỳ động thái nào đi ngược các quy tắc cơ bản của WTO.

Thế giới đang chờ đợi một cuộc gặp giữa Mỹ và Trung Quốc trong thời gian sớm nhất, để giải quyết các bất đồng hiện tại, tránh ảnh hưởng đến cả nền kinh tế toàn cầu. Tuy vậy, rất nhiều nhà phân tích cho rằng việc này chỉ khả thi sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ tháng tới.

“Kinh tế Trung Quốc vẫn khá vững trước tác động của chiến tranh thương mại, nhờ tăng trưởng tiêu dùng nội địa tốt. Đây là rủi ro chính với ông Trump khi muốn áp thêm thuế nhập khẩu lên hàng Trung Quốc”, Rajiv Biswas – kinh tế trưởng khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại IHS Markit cho biết, “Tuy vậy, lĩnh vực xuất khẩu của họ vẫn còn dựa chủ yếu vào thị trường Mỹ”.

Theo VnExpres

kinh te trung quoc lien tiep chiu don giang chi trong vai ngay Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thấp nhất 9 năm vì chiến tranh thương mại
kinh te trung quoc lien tiep chiu don giang chi trong vai ngay Chiến tranh thương mại làm suy yếu nền tảng phát triển của Trung Quốc

s

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Hà Nội - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đà Nẵng - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Miền Tây - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Tây Nguyên - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,540 ▲310K 14,790 ▲190K
Trang sức 99.9 14,530 ▲310K 14,780 ▲190K
NL 99.99 14,540 ▲310K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,540 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Thái Bình 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Nghệ An 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Hà Nội 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 146 ▼1295K 14,802 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 146 ▼1295K 14,803 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,442 ▲19K 1,464 ▲19K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,442 ▲19K 1,465 ▲19K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 ▲1279K 1,449 ▲1306K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 ▲1881K 143,465 ▲1881K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 ▲1425K 108,836 ▲1425K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 ▲90293K 98,692 ▲97718K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 ▲1159K 88,548 ▲1159K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 ▲1108K 84,635 ▲1108K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 ▲792K 60,579 ▲792K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cập nhật: 15/10/2025 23:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16652 16921 17493
CAD 18233 18509 19123
CHF 32269 32652 33284
CNY 0 3470 3830
EUR 30006 30279 31302
GBP 34352 34744 35683
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14780 15366
SGD 19791 20073 20587
THB 725 788 841
USD (1,2) 26077 0 0
USD (5,10,20) 26118 0 0
USD (50,100) 26146 26181 26369
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,166 26,166 26,369
USD(1-2-5) 25,120 - -
USD(10-20) 25,120 - -
EUR 30,254 30,278 31,407
JPY 171.14 171.45 178.52
GBP 34,780 34,874 35,670
AUD 16,925 16,986 17,415
CAD 18,479 18,538 19,051
CHF 32,656 32,758 33,414
SGD 19,968 20,030 20,636
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,338 3,348 3,428
KRW 17.17 17.91 19.22
THB 776.28 785.87 835.42
NZD 14,806 14,943 15,280
SEK - 2,737 2,815
DKK - 4,047 4,161
NOK - 2,568 2,640
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.75 - 6,552.97
TWD 781.2 - 939.35
SAR - 6,928.45 7,247.93
KWD - 83,867 88,598
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16818 16918 17529
CAD 18407 18507 19111
CHF 32504 32534 33409
CNY 0 3660.9 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30178 30208 31231
GBP 34651 34701 35822
HKD 0 3390 0
JPY 170.41 170.91 177.95
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19943 20073 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 15/10/2025 23:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 23:45