Kinh tế toàn cầu bên bờ suy thoái vì căng thẳng Mỹ - Trung

06:28 | 10/08/2019

260 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chứng khoán, sản xuất công nghiệp giảm mạnh, trong khi vàng, trái phiếu liên tục tăng giá... cho thấy kinh tế toàn cầu bước đầu chịu tác động từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung.

Cuộc chiến thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc đang đưa kinh tế thế giới đến bờ suy thoái lần đầu trong một thập kỷ. Nhà đầu tư kêu gọi các chính trị gia và các ngân hàng trung ương nhanh chóng hành động để tránh nguy cơ này.

Sản xuất công nghiệp của Đức tháng 6 giảm mạnh nhất trong gần một thập kỷ. Điều này phản ánh mức độ nghiêm trọng của sản xuất tại nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Tại châu Á - Thái Bình Dương, các ngân hàng trung ương của New Zealand, Ấn Độ và Thái Lan đã bất ngờ cắt giảm lãi suất để cố gắng bảo vệ nền kinh tế khỏi bất lợi.

Tại Mỹ, rủi ro suy thoái "cao hơn nhiều so với mức cần thiết và cao hơn so với hai tháng trước". Đây là nhận định của Lawrence Summers - Cựu thư ký Bộ Tài chính và cố vấn kinh tế của Nhà Trắng. "Chơi với lửa thì có ngày bỏng tay", ông nói và dự báo khả năng Mỹ bước vào suy thoái trong 12 tháng tới ít hơn 50/50.

Chứng khoán Mỹ trên sàn New York giảm. Trái phiếu tăng giá trên toàn cầu. Vàng và đồng yên cũng tăng giá. Đường cong lợi suất của cả hai nền kinh tế Mỹ và Đức đang nhấp nháy những dấu hiệu cảnh báo về sự suy thoái.

Kinh tế toàn cầu bên bờ suy thoái vì căng thẳng Mỹ - Trung
Xe tải chờ nhận hàng ban đêm tại một cảng ở Hạ Môn, Trung Quốc. Ảnh: Bloomberg

Khi quan hệ thương mại Mỹ - Trung xấu hơn, lãi suất cũng đi xuống theo. Ngân hàng Dự trữ New Zealand hôm thứ tư đã khiến các nhà đầu tư choáng váng khi cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản, gấp đôi so với mức dự kiến. Thái Lan cũng bất ngờ cắt giảm 25 điểm. Ngân hàng Trung ương Ấn Độ Ấn Độ thì hạ lãi suất 35 điểm một cách khác thường.

Dù thị trường lao động toàn cầu đang có tỷ lệ thất nghiệp rất thấp và các ngân hàng trung ương nới lỏng chính sách để tạo bộ đệm cho nền kinh tế thì các nhà phân tích đã bắt đầu dự báo về suy thoái. Nỗi sợ hãi của họ chủ yếu xoay quanh những tác động của thuế quan.

Theo một kịch bản, Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thực hiện lời đe dọa mới nhất là áp thuế 10% đối với hơn 300 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc. Dù chi phí tác động trực tiếp bởi mức thuế này có thể nhỏ, nhưng sự bất ổn được tạo ra bởi căng thẳng thương mại leo thang sẽ ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, tuyển dụng và cuối cùng là tiêu dùng.

Các nhà kinh tế của Morgan Stanley dự đoán nếu Mỹ áp thuế 25% đối với tất cả hàng nhập khẩu của Trung Quốc trong 4 đến 6 tháng và nước này đáp trả thì khả năng kinh tế toàn cầu sẽ giảm khoảng ba phần tư. Căng thẳng thương mại giờ không chỉ có giữa Mỹ - Trung mà còn giữa Nhật Bản - Hàn Quốc cũng như mối quan hệ tương lai của Anh với Liên minh châu Âu.

Điều đáng lo ngại là nếu các thỏa thuận "ngừng bắn" không sớm được thiết lập thì thị trường sẽ nối đà trượt dốc gần đây. Các công ty sẽ giảm đầu tư, suy yếu trong sản xuất sẽ lan sang dịch vụ. Sau đó, thị trường việc làm vốn đang vững chắc sẽ rạn nứt và người tiêu dùng sẽ nản lòng.

Mặc dù các ngân hàng trung ương có thể sẽ cắt giảm lãi suất và tiếp tục nới lỏng định lượng, nhưng điều đó có thể không còn đủ để vực dậy tinh thần. Các chính phủ có thể không đủ nhanh để nới lỏng chính sách tài khóa.

"Vì không có dấu hiệu kết thúc nên dự báo tăng trưởng Mỹ và toàn cầu sẽ vẫn tiêu cực. Nếu cuộc chiến thương mại leo thang, bao gồm cuộc chiến tiền tệ rõ ràng hơn, thì sự không chắc chắn sẽ tăng. Các điều kiện tài chính cũng bị thắt chặt", các chuyên gia kinh tế của Bank of America cảnh báo.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) toàn cầu của Morgan Chase & Co đã co lại. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã sẵn sàng tung ra đợt kích thích mới ngay sau tháng 9, khả năng bao gồm việc cắt giảm lãi suất sâu hơn. Tại Mỹ, tăng trưởng sản xuất đã chậm lại trong bốn tháng liên tiếp. Các chiến lược gia của Citigroup đã cắt giảm dự báo thu nhập tại các công ty S&P 500.

Tiếp đến là người tiêu dùng. Người dân Trung Quốc và Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu, có lẽ được khuyến khích bởi thị trường lao động tích cực. Nhưng các nhà kinh tế của JPMorgan cho rằng, tốc độ tuyển dụng toàn cầu nửa cuối năm sẽ chậm lại. Doanh số ôtô sụt giảm lịch sử ở Trung Quốc đang là một dấu hiệu.

Các ngân hàng trung ương đang quay lại "chế độ cứu hộ" sau khi đã hoàn toàn dừng can thiệp từ những cuộc suy thoái cuối cùng. Với việc cắt giảm lãi suất lần đầu kể từ năm 2008 cách đây một tuần, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẵn sàng làm điều đó một lần nữa vào tháng tới.

Ông Trump hôm thứ tư tiếp tục hối thúc FED và gọi cơ quan này là "bất tài". "Họ phải cắt giảm lãi suất nhiều hơn và nhanh hơn, và dừng sự thắt chặt định lượng vô lý của họ ngay bây giờ", ông viết trên Twitter.

Nhưng lần này, các ngân hàng trung ương có thể không đủ mạnh để cắt lãi suất vì tỷ lệ vốn đã ở mức thấp và hành động tiếp theo có thể khó chống đỡ được sự sụp đổ từ những rắc rối thương mại.

Các nhà đầu tư được khảo sát gần đây bởi Bank of America Corp nói chính sách tiền tệ là mối quan tâm lớn nhất của họ. "Chúng ta đang dùng công cụ lãi suất để khắc phục vấn đề không thể giải quyết", Patrick Bennett - chuyên gia của Canadian Imperial Bank of Commerce tại Hong Kong bình luận.

Một điều phức tạp nữa là quyết định của Bộ Tài chính Mỹ xem Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ, sau khi Trung Quốc lần đầu cho nhân dân tệ (CNY) xuống dưới mốc quan trọng 7 CNY một USD trong 11 năm qua. "Một lần nữa, chúng ta đi từ vài thứ không chắc chắn đến vô số những điều không chắc chắn", chuyên gia 20 năm kinh nghiệm về kinh tế Trung Quốc Fraser Howie bình luận.

Theo VNE

Nhiền ngân hàng trung ương châu Á hạ lãi suất "cứu" tăng trưởng
Tổng thống Philippines nói sẽ gây sức ép với Trung Quốc về quy tắc ứng xử Biển Đông
Làm đường cao tốc Bắc Nam: Thiếu vốn cũng không thể hy sinh thành bẫy nợ
Mỹ "tung đòn" nhằm vào Huawei và các công ty công nghệ Trung Quốc
Chuyên gia dự báo 3 “kịch bản” Trung Quốc sẽ làm tại bãi Tư Chính

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 ▲200K 120,900 ▲200K
AVPL/SJC HCM 118,900 ▲200K 120,900 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 118,900 ▲200K 120,900 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 ▲30K 11,270 ▲30K
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 ▲30K 11,260 ▲30K
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
TPHCM - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Hà Nội - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Miền Tây - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▲200K 120.900 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 ▲200K 116.600 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 ▲200K 116.480 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 ▲200K 115.770 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 ▲190K 115.530 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 ▲150K 87.600 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 ▲120K 68.360 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 ▲90K 48.660 ▲90K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 ▲190K 106.910 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 ▲130K 71.280 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 ▲130K 75.940 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 ▲140K 79.440 ▲140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 ▲80K 43.880 ▲80K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 ▲70K 38.630 ▲70K
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 ▲40K 11,720 ▲40K
Trang sức 99.9 11,260 ▲40K 11,710 ▲40K
NL 99.99 10,845 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,845 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
Miếng SJC Thái Bình 11,890 ▲20K 12,090 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 11,890 ▲20K 12,090 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 11,890 ▲20K 12,090 ▲20K
Cập nhật: 03/07/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16685 16954 17533
CAD 18745 19023 19637
CHF 32444 32827 33481
CNY 0 3570 3690
EUR 30266 30540 31569
GBP 34903 35296 36242
HKD 0 3208 3410
JPY 175 179 185
KRW 0 18 20
NZD 0 15594 16185
SGD 20037 20320 20847
THB 725 788 842
USD (1,2) 25944 0 0
USD (5,10,20) 25984 0 0
USD (50,100) 26013 26047 26345
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,006 26,006 26,345
USD(1-2-5) 24,966 - -
USD(10-20) 24,966 - -
GBP 35,240 35,335 36,205
HKD 3,277 3,287 3,383
CHF 32,682 32,783 33,576
JPY 178.79 179.11 186.51
THB 771.59 781.12 835
AUD 16,926 16,987 17,449
CAD 18,948 19,009 19,552
SGD 20,168 20,231 20,895
SEK - 2,700 2,791
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,068 4,205
NOK - 2,552 2,639
CNY - 3,607 3,701
RUB - - -
NZD 15,539 15,683 16,127
KRW 17.78 18.54 19.99
EUR 30,438 30,463 31,676
TWD 818.91 - 989.76
MYR 5,794.27 - 6,532.09
SAR - 6,865.72 7,220.09
KWD - 83,528 88,733
XAU - - -
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,990 26,000 26,340
EUR 30,297 30,419 31,549
GBP 35,093 35,234 36,229
HKD 3,269 3,282 3,387
CHF 32,480 32,610 33,546
JPY 178.05 178.77 186.23
AUD 16,876 16,944 17,487
SGD 20,207 20,288 20,843
THB 787 790 826
CAD 18,926 19,002 19,536
NZD 15,673 16,183
KRW 18.49 20.32
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26030 26030 26345
AUD 16861 16961 17537
CAD 18933 19033 19584
CHF 32708 32738 33612
CNY 0 3622.9 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30564 30664 31439
GBP 35220 35270 36391
HKD 0 3330 0
JPY 178.86 179.86 186.42
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15714 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20202 20332 21063
THB 0 754.8 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12070000
XBJ 10800000 10800000 12070000
Cập nhật: 03/07/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,025 26,075 26,345
USD20 26,025 26,075 26,345
USD1 26,025 26,075 26,345
AUD 16,905 17,055 18,130
EUR 30,602 30,752 31,990
CAD 18,872 18,972 20,300
SGD 20,266 20,416 20,901
JPY 179.33 180.83 185.55
GBP 35,320 35,470 36,266
XAU 11,888,000 0 12,092,000
CNY 0 3,506 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 03/07/2025 12:00