Không hạ lãi suất điều hành, các ngân hàng vẫn có thể giảm lãi vay

11:00 | 11/08/2021

1,373 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Không như dự đoán của một số định chế tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định chưa có kế hoạch giảm lãi suất điều hành thời điểm này.

Giảm tiếp lãi suất điều hành là chưa hợp lý

Trả lời báo chí mới đây, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, không như lãi suất cho vay, để có lãi suất điều hành phù hợp thì phải phụ thuộc vào diễn biến khách quan của nền kinh tế, dựa trên yêu cầu về ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tài chính. Để điều hành kinh tế vĩ mô, cần phải căn cứ vào biến động của tình hình kinh tế thế giới, các chính sách tiền tệ phải bảo đảm theo hướng linh hoạt, bảo đảm ổn định kiểm soát lạm phát, giữ các cân đối lớn của nền kinh tế trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.

Phó Thống đốc
Phó Thống đốc Thường trực NHNN cho biết: "Đối với việc tăng hay giảm lãi suất điều hành, NHNN phải cân nhắc, tính toán kỹ, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan" (ảnh: giao dịch tại NHTM)

Nhìn lại riêng trong năm 2020, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành. Đến nay, dưới góc độ vĩ mô, NHNN cho rằng, mặt bằng lãi suất điều hành, lãi suất thị trường cơ bản ổn định, phù hợp.

Hơn nữa, qua phân tích diễn biến thị trường thực tế, NHNN nhận thấy vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM), hay còn gọi là thanh khoản của các NHTM dồi dào, lãi suất thị trường liên ngân hàng khá thấp. Ở đầu ra, trong bối cảnh hiện nay, cầu tín dụng ra nền kinh tế còn khá thấp, do đó, việc giảm lãi suất điều hành chưa phải là giải pháp thích hợp và phát huy tác dụng trong thời điểm hiện nay.

Vì vậy, NHNN không cho rằng việc giảm tiếp lãi suất điều hành là hợp lý. Thời điểm này, cần cân đối bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời, dưới góc độ vĩ mô là kiểm soát lạm phát trong năm 2021 cũng như những năm tới.

Tuy nhiên, Phó Thống đốc cũng cho biết NHNN vẫn đang theo dõi chặt các diễn biến để có các công cụ hữu hiệu, vận dụng linh hoạt chính sách tiền tệ đúng thời điểm, từ đó phát huy tác dụng, đạt hiệu quả cao nhất.

Trong năm 2020, NHNN đã thực hiện một loạt các đợt cắt giảm lãi suất vào ngày 17/3, 13/5 và 1/20/2020 với các nội dung quan trọng như: Giảm lãi suất tái cấp vốn từ 6,0% xuống 4,0%; lãi suất tái chiết khấu từ 4,0% xuống 2,5% và lãi suất OMO từ 4,0% xuống 2,5%. Giảm trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến 6 tháng 5,0% xuống 4,0%. Đồng thời ban hành Thông tư 01/2020 với các ngân hàng cùng thực hiện tái cơ cấu/ giảm lãi vay cho một số khoản dư nợ và khoản vay mới cũng như giảm phí các loại giao dịch ngân hàng.

Thông qua đó, mặt bằng lãi suất tiền gửi của Việt Nam đã về mức thấp nhất khu vực. NHNN khẳng định qua đó đã hỗ trợ cho mặt bằng lãi suất vay được điều chỉnh xuống thấp hơn trước từ 1,0%-1,5%; với các khoản cho vay các lĩnh vực ưu tiên là 2%.

Lãi suất điều hành của NHNN áp dụng trong năm 2020, tiếp tục
Lãi suất điều hành của NHNN áp dụng trong năm 2020, tiếp tục được áp dụng trong năm 2021 (Dữ liệu: VCSC)

Trần lãi suất tiền gửi và mặt bằng lãi suất cho vay của 2020 tiếp tục được “kế thừa” qua 2021, theo định hướng tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ phù hợp các diễn biến vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.

Tuy nhiên, theo đánh giá của World Bank đầu 2021, NHNN đã hẹp dư địa để nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ và có thể sẽ phải thay đổi từ giữa năm 2021. Tương tự, chính sách tài khóa cũng cần có sự điều chỉnh để trở về tiếp tục củng cố bộ đệm dày mà Việt Nam đã tích lũy được trong hơn 3 năm qua, nhằm giữ ổn định tiền tệ - tài khóa của Việt Nam và điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với các diễn biến, sẵn sàng chống đỡ các cú sốc có thể xảy đến từ bên ngoài.

COVID-19 với làn sóng thứ tư đã khiến các biến số kinh tế vĩ mô thay đổi. Theo CTCK SSI đánh giá, có thể NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ tăng trưởng, giúp các doanh nghiệp duy trì thanh khoản trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Không loại trừ khả năng NHNN có các động thái tiếp tục nới lỏng chính sách, nếu tình hình dịch bệnh có những diễn biến phức tạp, kéo dài hơn so với dự kiến.

Song với khẳng định của Lãnh đạo NHNN, chính sách tiền tệ như hiện tại có thể sẽ duy trì, nhưng cơ quan quản lý ít nhất trước mắt sẽ không có động thái nào can thiệp sâu hơn từ lãi suất điều hành.

Tăng trưởng tín dụng sẽ tiếp tục tăng mạnh

Trong khi đó, giới chuyên môn đánh giá, với đà tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận cao của các ngân hàng thương mại trong năm 2020 và 6 tháng đầu 2021, trong đó nguồn thu chủ yếu đến từ tín dụng và hệ số biên lãi ròng (NIM) ở mức cao, chủ yếu do chi phí vốn huy động rẻ trong khi lãi suất vay vẫn còn ở mức cao, dù NHNN không can thiệp lãi suất điều hành, các NHTM vẫn có thể giảm lãi suất vay như cam kết mới đây, sâu hơn và thực tế hơn nữa, để hỗ trợ tăng trưởng, hỗ trợ doanh nghiệp.

Tăng trưởng tín dụng
Khoảng cách tốc độ tăng trưởng tín dụng và GDP danh nghĩa cao (ước lên đến gần tám điểm phần trăm) cho thấy, dường như tín dụng chưa thực sự đi vào nền kinh tế và hiệu quả tín dụng đối với nền kinh tế đang kém đi

Mức giảm lãi suất vay của các ngân hàng có thể không đáp ứng kỳ vọng cao của các doanh nghiệp như đề xuất giảm 3%-5% của các doanh nghiệp SME Hà Nội; hay đề xuất giảm 2% cho mọi khoản vay từ Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, nhưng chỉ cần điều chỉnh giảm nhẹ NIM, các NHTM đã có thể chung tay giảm lãi vay hiệu quả”, một chuyên gia đánh giá.

Về thanh khoản của các NHTM, theo ghi nhận của Trung tâm Phân tích Chứng khoán SSI - SSI Research, trong tuần đầu tháng 8, thị trường mở không phát sinh giao dịch mới và các hợp đồng kỳ hạn bán ngoại tệ tiếp tục được thực hiện giúp nguồn cung VND được cải thiện. Đáng chú ý đến nay, 75% lượng hợp đồng bán ngoại tệ đã đáo hạn và khối lượng còn lại sẽ được thực hiện hoàn toàn trong tháng 8. Như vậy, một phần nguồn cung VND sẽ tiếp tục chảy ra thị trường trong tháng này. Các NHTM hoàn toàn có thanh khoản dồi dào để tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng tín dụng theo phần room mà NHNN vừa cấp mới đây.

Tính đến 21/6/2021, tăng trưởng tín dụng đạt 5,47% từ đầu năm đến nay, so với 2,45% cùng kỳ năm ngoái.

Theo dự báo của CTCK Bản Việt (VCSC), trong 6 tháng cuối năm 2021, tăng trưởng tín dụng sẽ tăng mạnh và hút bớt dư thừa thanh khoản khỏi hệ thống ngân hàng. VCSC điều chỉnh dự báo tăng trưởng tín dụng từ mức 10,4% so với cùng kỳ năm trước (yoy) lên 15,7% yoy. Bên cạnh đó, dự báo NIM theo tỷ trọng tài sản cũng đã tăng so với đầu năm, từ 3,66% lên 3,85%, tương ứng mức tăng 19 điểm cơ bản yoy và do đó cho thấy sự phục hồi tăng trưởng NIM đáng kể.

Động lực thúc đẩy các điều chỉnh dự báo này, theo VCSC, “là quan sát dựa trên nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế còn mạnh và sự sẵn sàng của các cơ quan quản lý trong việc đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn để duy trì tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn kiểm soát lạm phát. Đồng thời chúng tôi tin rằng các ngân hàng sẽ kiểm soát chi phí tín dụng khi các lĩnh vực quan trọng như bất động sản, xuất nhập khẩu và bán buôn sẽ lành mạnh hơn trong năm 2021 và so với năm ngoái, do đó bù đắp được diễn biến kém tích cực trong các phân khúc cho vay khác”.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Ngân hàng Nhà nước: Giảm 50% phí thanh toán điện tử liên ngân hàngNgân hàng Nhà nước: Giảm 50% phí thanh toán điện tử liên ngân hàng
Vietcombank giảm hàng loạt các loại phí dịch vụ hỗ trợ khách hàng trong thời kì dịch bệnh COVID-19Vietcombank giảm hàng loạt các loại phí dịch vụ hỗ trợ khách hàng trong thời kì dịch bệnh COVID-19
BIDV nhận giải “Ngân hàng lưu ký - giám sát tốt nhất Việt Nam 2021”BIDV nhận giải “Ngân hàng lưu ký - giám sát tốt nhất Việt Nam 2021”

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,500 119,500
AVPL/SJC HCM 117,500 119,500
AVPL/SJC ĐN 117,500 119,500
Nguyên liệu 9999 - HN 11,230 11,410
Nguyên liệu 999 - HN 11,220 11,400
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.500 115.500
TPHCM - SJC 117.500 119.500
Hà Nội - PNJ 112.500 115.500
Hà Nội - SJC 117.500 119.500
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.500
Đà Nẵng - SJC 117.500 119.500
Miền Tây - PNJ 112.500 115.500
Miền Tây - SJC 117.500 119.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 119.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.500 119.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.500 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.390 114.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.680 114.180
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.450 113.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.900 86.400
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.930 67.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.490 47.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.940 105.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.800 70.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.400 74.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.850 78.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.780 43.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.600 38.100
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,170 11,690
Trang sức 99.9 11,160 11,680
NL 99.99 11,170
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,170
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 11,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 11,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 11,700
Miếng SJC Thái Bình 11,750 11,950
Miếng SJC Nghệ An 11,750 11,950
Miếng SJC Hà Nội 11,750 11,950
Cập nhật: 29/04/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16100 16367 16945
CAD 18213 18489 19106
CHF 30699 31075 31729
CNY 0 3358 3600
EUR 28882 29151 30181
GBP 33882 34272 35212
HKD 0 3221 3423
JPY 174 178 184
KRW 0 0 19
NZD 0 15160 15750
SGD 19255 19534 20053
THB 688 751 804
USD (1,2) 25736 0 0
USD (5,10,20) 25775 0 0
USD (50,100) 25803 25837 26182
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,810 25,810 26,170
USD(1-2-5) 24,778 - -
USD(10-20) 24,778 - -
GBP 34,100 34,193 35,104
HKD 3,291 3,301 3,401
CHF 30,822 30,918 31,783
JPY 176.99 177.31 185.22
THB 736.22 745.31 797.41
AUD 16,354 16,413 16,852
CAD 18,467 18,527 19,024
SGD 19,413 19,474 20,089
SEK - 2,631 2,722
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,880 4,014
NOK - 2,447 2,532
CNY - 3,522 3,618
RUB - - -
NZD 15,107 15,247 15,690
KRW 16.68 17.4 18.7
EUR 29,007 29,030 30,266
TWD 721.68 - 873.66
MYR 5,557.33 - 6,267.46
SAR - 6,811.98 7,170.02
KWD - 82,434 87,687
XAU - - -
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,810 25,820 26,160
EUR 28,925 29,041 30,151
GBP 33,928 34,064 35,036
HKD 3,284 3,297 3,404
CHF 30,817 30,941 31,836
JPY 176.64 177.35 184.69
AUD 16,261 16,326 16,855
SGD 19,421 19,499 20,028
THB 751 754 787
CAD 18,399 18,473 18,987
NZD 15,212 15,721
KRW 17.25 19
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25820 25820 26180
AUD 16274 16374 16940
CAD 18394 18494 19045
CHF 30933 30963 31848
CNY 0 3527.5 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29055 29155 30027
GBP 34184 34234 35342
HKD 0 3358 0
JPY 178.25 178.75 185.27
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15270 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19404 19534 20266
THB 0 717 0
TWD 0 796 0
XAU 11750000 11750000 11950000
XBJ 10500000 10500000 11950000
Cập nhật: 29/04/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,800 25,850 26,208
USD20 25,800 25,850 26,208
USD1 25,800 25,850 26,208
AUD 16,303 16,453 17,532
EUR 29,220 29,370 30,557
CAD 18,316 18,416 19,741
SGD 19,449 19,599 20,084
JPY 177.77 179.27 184
GBP 34,163 34,313 35,116
XAU 11,748,000 0 11,952,000
CNY 0 3,409 0
THB 0 753 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/04/2025 07:00