Khơi thông dòng tiền chảy ra nền kinh tế

08:12 | 02/06/2023

38 lượt xem
|
Nhiều doanh nghiệp hiện đã cạn kiệt dòng tiền và phải bán các tài sản cuối cùng để duy trì hoạt động, nhưng chỉ cần tiền có thể được bơm ra nền kinh tế thì tổng cầu sẽ tăng và kích thích tăng trưởng.

Tính đến ngày 25/4/2023, tín dụng bơm ra nền kinh tế mới đạt khoảng 3,07%, huy động nguồn vốn đạt trên 2% và đặc biệt, tiền gửi của các tổ chức kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp tại hệ thống ngân hàng tính trên cung tiền M2 đã sụt giảm xấp xỉ 6%, tương đương 300.000 tỷ đồng. Bởi dòng tiền cạn kiệt nên có những khoản tiền mặt nào trên tài khoản, các doanh nghiệp đều phải dùng chi trả cho các nhu cầu cấp bách trước mắt.

Khơi thông dòng tiền chảy ra nền kinh tế
Nhiều doanh nghiệp hiện nay đã cạn kiệt dòng tiền và phải bán các tài sản cuối cùng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh

Chúng ta đều thấy rõ, cả năm 2022 tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chỉ trên 6%, trong khi nền kinh tế tăng trưởng khoảng 8,02%, cộng với lạm phát 3,4% thì đáng lẽ M2 phải tăng trưởng tối thiểu 11-12%, nhưng con số lại thấp kỷ lục chỉ 5,5%.

Tất cả những yếu tố này đều là biểu hiện cho thấy nền kinh tế đang rất thiếu tiền, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã cạn kiệt dòng tiền và phải bán các tài sản cuối cùng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong khi đó, các ngân hàng đã cho vay vượt quy định Basel II, ở mức trên 80% đối với vốn huy động thị trường một. Nghĩa là ngân hàng nào muốn cho vay được thì phải huy động được vốn từ thị trường một, nhưng tiền gửi của doanh nghiệp sụt giảm gần 60%, tiền gửi của người dân tăng một chút giúp bù đắp không đáng kể phần thiếu của doanh nghiệp. Thực tế các ngân hàng đang bị hụt hẫng khi không đáp ứng được tiêu chí quản trị rủi ro của Basel II.

Một vấn đề nữa là toàn bộ số tiền của các ngân hàng thương mại dồn trên tài khoản thừa thanh khoản thì một phần nguyên nhân là do khả năng hấp thụ vốn và đáp ứng tiêu chuẩn vay của các doanh nghiệp không đủ, vì vậy ngân hàng quay trở lại mua tín phiếu kho bạc và trái phiếu Chính phủ. Cho nên tiền mua trái phiếu Chính phủ trong những ngày đấu thầu gần đây là mấy chục nghìn tỷ đồng, nhưng sau khi đấu thầu xong thì tiền lại bị “nhốt” về ngân hàng trung ương.

Trong khi đó, toàn bộ tiền này không nằm trong bộ phận M2, các ngân hàng tưởng rằng có nguồn vốn để cho vay nhưng thực tế là không và hệ số nhân tiền ở Việt Nam vô cùng thấp. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có ba lần hạ lãi suất nhưng cung tiền không tăng thì nền kinh tế sẽ vẫn thiếu tiền.

Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ hạ trần lãi suất huy động dưới 6 tháng, nhưng nếu người dân gửi tiền thì các ngân hàng sẽ đều có những cách thức để hút vốn của người dân bằng con đường khuyến mại, chi thưởng bên ngoài. Do đó, chúng ta cần phải nhìn sâu vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, đó là câu chuyện các ngân hàng trở thành kênh huy động vốn cho các ông chủ của những tập đoàn kinh tế lớn.

Khơi thông dòng tiền chảy ra nền kinh tế
Chỉ cần tiền có thể ra được nền kinh tế là tổng cầu sẽ tăng và kích thích kinh tế tăng trưởng

Đáng chú ý là vốn chủ yếu tập trung cho các công ty sân sau, chảy vào bất động sản mà bằng chứng rõ nhất là dư nợ của bất động sản vào cuối năm 2022 đã tăng trưởng rất cao (15,8%). Điều này dẫn đến tình trạng khi bong bóng bất động sản xì hơi thì tiền sẽ không thể chảy ra và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khó khăn, không vay được vốn cũng làm cho tín dụng không thể tăng.

Có thể thấy, nhiều dự án sản xuất kinh doanh, đầu tư vào công nghệ thì không tiếp cận được vốn, bởi vì chỉ số IRR (tỷ suất hoàn vốn nội bộ) không đáp ứng được lãi suất ngân hàng; chỉ những doanh nghiệp bất động sản hoặc kinh doanh kiểu bong bóng tài chính lấy tiền của người sau trả cho tiền cho người trước, có thể khiến hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn.

Một bài học rất rõ là năm 2011-2012 khi nợ xấu ngân hàng “ục” ra, mà phải 10 năm sau chúng ta mới bắt đầu phục hồi lại. Điều đó cho thấy nếu hệ thống ngân hàng có vấn đề thì nền kinh tế cũng sẽ có vấn đề và chúng ta cần có góc nhìn rõ ràng hơn. Trong khi các ngân hàng thương mại Nhà nước làm việc rất khách quan và bài bản, thì các ngân hàng thương mại cổ phần chỉ có một nhóm tốt, còn một nhóm cần phải xem lại.

Cụ thể, các ngân hàng này cho vay các công ty sân sau mang đến nhiều rủi ro cho nền kinh tế, mà sở hữu chéo giống như một ma trận làm cho mặt bằng lãi suất của nền kinh tế bị đẩy lên, khiến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển công nghệ không hấp thu được vốn. Chúng ta phải đưa ra giải pháp từ những vấn đề đó để giải cứu nền kinh tế.

Nhiều chuyên gia đã từng nói, doanh nghiệp Việt Nam vẫn cứ nhỏ nhỏ vừa vừa để thấy rằng, phân bổ nguồn lực trong môi trường rủi ro và lãi suất cao sẽ không tốt cho nền kinh tế nói chung.

Muốn bơm tiền và kích thích tổng cầu cho nền kinh tế, theo tôi có hai cách: Thứ nhất, là giải ngân đầu tư công, khi người dân nhận được tiền đền bù, đồng thời kích thích câu chuyện mua vật liệu xây dựng, tiền nhân công, máy móc thi công, xăng dầu... sẽ tạo ra một lượng cầu rất lớn, một dây chuyền về chuỗi giá trị trong nền kinh tế.

Thứ hai, là tiền tín dụng của ngân hàng trung ương bơm ra nhờ mục tiêu mua ngoại tệ mà không hút về, thì tiền đó sẽ nằm trong hệ thống ngân hàng. Nếu mua từ doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ dùng chính tiền đó gửi ngân hàng, còn mua của người dân từ kiều hối, thì người dân cũng sẽ dùng tiền đồng gửi lại, giúp tăng tiền trong hệ thống ngân hàng và hệ số cho vay của ngân hàng trên thị trường một được tháo gỡ.

Như vậy chỉ cần tiền có thể ra được nền kinh tế là tổng cầu sẽ tăng và kích thích kinh tế tăng trưởng.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Khơi dòng tiền cho doanh nghiệp sản xuất: Giảm áp lực vốn

Khơi dòng tiền cho doanh nghiệp sản xuất: Giảm áp lực vốn

Thông tư 02/2023 về cơ cấu nợ được NHNN ban hành hiện nay là vô cùng cần thiết. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ được hỗ trợ tốt nhất bởi Thông tư.

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Hà Nội - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Đà Nẵng - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Miền Tây - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Tây Nguyên - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Đông Nam Bộ - PNJ 143,500 ▼1500K 146,500 ▼1500K
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
Miếng SJC Nghệ An 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
Miếng SJC Thái Bình 14,500 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,400 ▼120K 14,700 ▼120K
NL 99.99 13,730 ▼120K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,730 ▼120K
Trang sức 99.9 13,720 ▼120K 14,690 ▼120K
Trang sức 99.99 13,730 ▼120K 14,700 ▼120K
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 145 ▼1317K 14,702 ▼120K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 145 ▼1317K 14,703 ▼120K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,422 ▼12K 1,447 ▼12K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,422 ▼12K 1,448 ▲1302K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,407 ▼12K 1,437 ▼12K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 137,777 ▼1188K 142,277 ▼1188K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,436 ▼900K 107,936 ▼900K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,376 ▼816K 97,876 ▼816K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,316 ▼732K 87,816 ▼732K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,435 ▼700K 83,935 ▼700K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,579 ▼500K 60,079 ▼500K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 145 ▼1317K 147 ▼1335K
Cập nhật: 05/11/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16512 16780 17360
CAD 18116 18391 19006
CHF 31891 32272 32903
CNY 0 3470 3830
EUR 29605 29876 30904
GBP 33466 33854 34787
HKD 0 3255 3457
JPY 164 169 175
KRW 0 17 19
NZD 0 14540 15127
SGD 19586 19866 20387
THB 724 787 840
USD (1,2) 26059 0 0
USD (5,10,20) 26100 0 0
USD (50,100) 26129 26148 26351
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,115 26,115 26,351
USD(1-2-5) 25,071 - -
USD(10-20) 25,071 - -
EUR 29,816 29,840 30,989
JPY 168.84 169.14 176.3
GBP 33,863 33,955 34,766
AUD 16,771 16,832 17,285
CAD 18,344 18,403 18,939
CHF 32,215 32,315 33,012
SGD 19,746 19,807 20,434
CNY - 3,643 3,742
HKD 3,333 3,343 3,428
KRW 16.82 17.54 18.84
THB 772.13 781.67 832.51
NZD 14,545 14,680 15,036
SEK - 2,703 2,784
DKK - 3,990 4,108
NOK - 2,533 2,609
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,869.65 - 6,587.68
TWD 769.49 - 927.04
SAR - 6,917.02 7,245.11
KWD - 83,563 88,446
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26110 26110 26351
AUD 16680 16780 17702
CAD 18300 18400 19415
CHF 32102 32132 33722
CNY 0 3656 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29770 29800 31528
GBP 33752 33802 35565
HKD 0 3390 0
JPY 168.3 168.8 179.32
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14638 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19737 19867 20596
THB 0 752.5 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14620000 14620000 14820000
SBJ 13000000 13000000 14820000
Cập nhật: 05/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,154 26,204 26,349
USD20 26,154 26,204 26,349
USD1 23,841 26,204 26,349
AUD 16,842 16,942 18,057
EUR 30,004 30,004 31,318
CAD 18,303 18,403 19,715
SGD 19,865 20,015 21,100
JPY 168.21 169.71 174.29
GBP 34,129 34,279 35,150
XAU 14,618,000 0 14,822,000
CNY 0 3,544 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 2
Cập nhật: 05/11/2025 10:00