Khó khăn rất lớn nhưng kinh tế phục hồi ngày càng tích cực

12:03 | 06/09/2022

2,737 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2022, những khó khăn, thách thức phải đối mặt rất lớn, song nền kinh tế có xu hướng phục hồi ngày càng tích cực, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn. Đến nay, đã giải ngân 55.000 tỷ đồng trong chương trình phục hồi và phát triển.

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 ngày 6/9, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2022; triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; phân bổ, giải ngân kế hoạch vốn ngân sách nhà nước năm 2022; thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia.

Khó khăn rất lớn nhưng kinh tế phục hồi ngày càng tích cực
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2022 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Theo báo cáo, trong tháng, tình hình thế giới tiếp tục biến động nhanh, phức tạp, khó lường, bên cạnh các yếu tố đã xuất hiện từ đầu năm, xuất hiện những yếu tố mới như hạn hán kéo dài trên diện rộng tại Trung Quốc, EU; chính sách tiền tệ nới lỏng tại Trung Quốc; căng thẳng địa chính trị gia tăng tại một số khu vực…

Trong nước, các hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục xu hướng phục hồi rất tích cực. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành đã chỉ đạo, điều hành quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, tổ chức nhiều hội nghị quan trọng về đầu tư công, doanh nghiệp, lao động, bất động sản… kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; tiếp tục giải quyết những vấn đề yếu kém tồn đọng kéo dài; ứng phó, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh; tiếp tục quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, kiểm tra công tác chuẩn bị khai giảng năm học mới ngay trong dịp nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, kịp thời thăm hỏi, động viên, khích lệ tinh thần thầy cô và học sinh.

Tình hình kinh tế-xã hội tháng 8 và 8 tháng đạt được nhiều kết quả tích cực

Ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. CPI tính chung 8 tháng tăng 2,58%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021; giá lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng giảm nhẹ; bảo đảm nguồn cung điện, xăng dầu, kịp thời chỉ đạo kiểm tra, xử lý nghiêm các cửa hàng bán lẻ xăng dầu hoạt động không đúng quy định, chủ động phương án điều hành để tạo dư địa hỗ trợ giá xăng dầu trong trường hợp cần thiết.

Bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, duy trì mặt bằng lãi suất, tỉ giá hợp lý để kiềm chế lạm phát; thu ngân sách 8 tháng ước đạt 85,6% dự toán, tạo dư địa điều hành chính sách tài khóa, hỗ trợ chính sách tiền tệ.

Xuất nhập khẩu tháng 8 ước tăng 17,3% so với cùng kỳ; nền kinh tế tháng 8 ước tính xuất siêu 2,42 tỷ USD, tính chung 8 tháng xuất siêu 3,96 tỷ USD.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục khởi sắc, nhiều ngành, lĩnh vực có xu hướng phục hồi tốt, bảo đảm nguồn cung tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) 8 tháng tăng 9,4% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 10,4%. Tiêu dùng trong nước phục hồi tốt, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng ước tăng 19,3% so với cùng kỳ. Du lịch tiếp tục phục hồi tích cực, khách quốc tế 0 tháng đạt hơn 1,4 triệu lượt, gấp 12,7 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Tình hình đăng ký doanh nghiệp tiếp tục tăng, phản ánh nền kinh tế đang phục hồi tích cực. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường 8 tháng đạt gần 150.000 doanh nghiệp, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm trước; biểu thị niềm tin mạnh mẽ của doanh nghiệp vào ổn định vĩ mô và phục hồi kinh tế nước ta.

Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các dự án trọng điểm, xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài, hoàn thành và đưa vào sử dụng một số công trình quan trọng, chiến lược trong 8 tháng đầu năm như đoạn Cao Bồ-Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía đông giai đoạn 2017-2020, cao tốc Vân Đồn-Móng Cái, Hạ Long-Móng Cái, cầu Thủ Thiêm 2; Nhiệt điện Thái Bình, Nghi Sơn, Sông Hậu…; xử lý 02 ngân hàng kiểm soát đặc biệt…

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm. Tiếp tục triển khai các chính sách an sinh xã hội, quan tâm hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục trẻ em bị mồ côi do đại dịch COVID-19; tổ chức nhiều hoạt động chào mừng ngày Quốc khánh (2/9), 77 năm ngày Cách mạng Tháng Tám, Ngày truyền thống công an nhân dân Việt Nam…

Công tác phòng, chống dịch bệnh, tiêm vaccine, điều trị bệnh nhân mắc COVID-19 được chú trọng; theo dõi chặt chẽ, không chủ quan, lơ là trước các dịch bệnh mới phát sinh, sẵn sàng kịch bản cho mọi diễn biến dịch bệnh.

Ngành giáo dục tích cực triển khai hoạt động tuyển sinh các cấp; làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức khai giảng năm học mới tiết kiệm, hiệu quả, tạo không khí phấn khởi, hăng say học tập; tổ chức triển khai tuyển dụng biên chế giáo viên cấp mầm non và phổ thông năm học 2022-2023, phục vụ nhu cầu dạy và học.

Quốc phòng an ninh được bảo đảm; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh, tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm năm đoàn kết hữu nghị Việt-Lào 2022, 55 năm quan hệ hữu nghị Việt Nam-Campuchia và 30 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hàn Quốc; làm tốt công tác bảo hộ công dân, kịp thời điều tra, xử lý các vụ, việc đưa công dân sang nước ngoài trái phép. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; điều tra, xử lý nghiêm nhiều vụ, việc lớn, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân.

Về một số khó khăn, hạn chế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Giá xăng dầu, lương thực, thép, phân bón… thế giới có dấu hiệu hạ nhiệt, nhưng khó dự báo; thiếu hụt, gián đoạn nguồn cung, chi phí sản xuất, vận tải toàn cầu gia tăng…, tạo áp lực lên lạm phát, giá cả hàng hóa trong nước. Những yếu tố này chưa thể giải quyết dứt điểm trong ngắn hạn, trong khi tình hình hạn hán tại Trung Quốc, EU có thể ảnh hưởng lớn đến nguồn cung lương thực, vật tư công nghiệp đầu vào trên thế giới, khu vực trong ngắn hạn.

Điều hành tăng trưởng tín dụng chịu sức ép lớn để kiềm chế lạm phát, nhu cầu vay vốn để phục hồi và mở rộng sản xuất, kinh doanh tăng cao, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn gặp những khó khăn trong tiếp cận vốn vay. Thu hút FDI gặp nhiều khó khăn, FDI đăng ký cấp mới 8 tháng chỉ bằng 56,1% so với cùng kỳ, ảnh hưởng đến tiềm năng mở rộng sản lượng của khu vực FDI, có thể tác động đến cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối, tỉ giá, thu hút công nghệ cao… trong trung và dài hạn.

Xuất khẩu đối mặt với thách thức không nhỏ, thị trường bị thu hẹp khi kinh tế Mỹ và nhiều nước phát triển có nguy cơ rơi vào suy thoái; số đơn hàng dệt may, gỗ, thủy sản… đi Mỹ và EU có dấu hiệu suy giảm; tồn kho gia tăng.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dịch COVID-19 còn tiềm ẩn khả năng diễn biến phức tạp, có nguy cơ "dịch chồng dịch"... Tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế ở một số bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh vẫn chưa được xử lý dứt điểm.

"Nhìn chung, trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2022, nền kinh tế có xu hướng phục hồi ngày càng tích cực, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn; tuy nhiên, những khó khăn, thách thức phải đối mặt cũng rất lớn, do biến động về giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào, thị trường thế giới chậm phục hồi, việc điều chỉnh chính sách của các nước; nếu không có giải pháp điều hành, hỗ trợ kịp thời, có thể làm suy giảm tiềm năng phục hồi kinh tế, tác động dây chuyền đến nhiều ngành, lĩnh vực, đời sống người dân", Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu một số bài học kinh nghiệm như phải chủ động phương án ứng phó với các tình huống cấp bách, bất ngờ phát sinh, có tính đến độ trễ trong xây dựng, thực thi chính sách; nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ, khả năng tự thích ứng của nền kinh tế; tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng chiến lược, quan trọng.

Cùng với đó, nâng cao tính chủ động, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất trong tham mưu, xây dựng, tổ chức thực hiện và thông tin, truyền thông về chính sách gắn với đẩy mạnh phân công, phân quyền, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính. Không chủ quan, lơ là trước dịch bệnh COVID19 và các dịch bệnh mới phát sinh.

Theo Bộ trưởng, trong mọi hoàn cảnh, phải giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Giải ngân 55.000 tỷ đồng chương trình phục hồi và phát triển

Về triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết nhìn chung, sau gần 8 tháng thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP, Chính phủ, các bộ, cơ quan, địa phương đã tiếp tục chủ động, nỗ lực xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Đến ngày 2/9, giải ngân các chính sách hỗ trợ thuộc Chương trình sơ bộ đạt 55,5 nghìn tỷ đồng, trong đó: (i) Các chương trình cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 10.073 tỷ đồng; (ii) Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đạt 3.045 tỷ đồng cho gần 4,54 triệu lao động; (iii) hỗ trợ 2% lãi suất đạt 13,5 tỷ đồng; (iv) Giảm thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường đối với nhiên liệu bay, xăng đến ngày 26/8/2022 là 34.970 tỷ đồng; (v) Chi phí cơ hội hỗ trợ thông qua gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất đến hết tháng 6/2022 là 7,4 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra gia hạn các loại thuế, tiền thuê đất là 52.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, việc hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động thực hiện chưa được như kỳ vọng do chênh lệch số liệu khi xây dựng chính sách và triển khai thực tế, thủ tục còn phức tạp và chính quyền một số địa phương triển khai chưa quyết liệt; việc hỗ trợ lãi suất 2% còn hạn chế…

Về giải ngân đầu tư công, theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước giải ngân đến ngày 31/8 là hơn 212.227 tỷ đồng, đạt 39,15% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tính về số tuyệt đối giải ngân thì cao hơn cùng kỳ năm 2021 là 24.942 tỷ đồng.

Cũng trong 8 tháng đầu năm, Chính phủ, Trung ương đã ban hành 84 văn bản quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, riêng tháng 8 năm 2022 ban hành 7 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đã ban hành theo thẩm quyền 8 văn bản. 44/52 địa phương đã hoàn thành việc giao kế hoạch vốn thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia cho các cơ quan, đơn vị, cấp trực thuộc.

Hà Văn (Báo điện tử Chính phủ)

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8
Thủ tướng: Phú Thọ phải tự lực tự cường vươn lên mạnh mẽ hơn nữaThủ tướng: Phú Thọ phải tự lực tự cường vươn lên mạnh mẽ hơn nữa
Điều kiện cấp giấy đăng ký hoạt động tổ chức phi chính phủ nước ngoàiĐiều kiện cấp giấy đăng ký hoạt động tổ chức phi chính phủ nước ngoài
Một số văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8/2022Một số văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8/2022
Giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vữngGiải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững
Thủ tướng: Xây dựng luật phải dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ giám sát, kiểm traThủ tướng: Xây dựng luật phải dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ giám sát, kiểm tra

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,400
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 74,300
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 7,525
Trang sức 99.9 7,310 7,515
NL 99.99 7,315
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 7,555
Miếng SJC Thái Bình 8,240 8,440
Miếng SJC Nghệ An 8,240 8,440
Miếng SJC Hà Nội 8,240 8,440
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 84,500
SJC 5c 82,500 84,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 84,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,900
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 75,000
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,100
Nữ Trang 99% 71,366 73,366
Nữ Trang 68% 48,043 50,543
Nữ Trang 41.7% 28,553 31,053
Cập nhật: 25/04/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,274 16,374 16,824
CAD 18,299 18,399 18,949
CHF 27,341 27,446 28,246
CNY - 3,467 3,577
DKK - 3,596 3,726
EUR #26,729 26,764 28,024
GBP 31,281 31,331 32,291
HKD 3,171 3,186 3,321
JPY 160.31 160.31 168.26
KRW 16.68 17.48 20.28
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,272 2,352
NZD 14,845 14,895 15,412
SEK - 2,285 2,395
SGD 18,218 18,318 19,048
THB 631.95 676.29 699.95
USD #25,145 25,145 25,485
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 25/04/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 08:00