Khi ngân hàng cần doanh nghiệp

08:00 | 16/11/2014

980 lượt xem
|
Khi các doanh nghiệp tiếp tục bài ca khó tiếp cận được vốn vay khiến người ta nghĩ ngay lỗi do các ngân hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, ít ai biết nhiều ngân hàng thương mại cũng rất “khổ” khi thừa vốn mà không thể cho vay.

Năng lượng Mới số 373

“Săn” doanh nghiệp tốt

Ông Văn Đức Mười, Tổng giám đốc VISSAN nhận định: Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ ở nước ta tiếp cận vay vốn rất thiếu chuyên nghiệp. Họ cứ muốn ngân hàng cho vay nhưng không có tài sản đảm bảo và lại không muốn ngân hàng giám sát việc sử dụng đồng vốn đó như thế nào. Do đó, xét về nguyên tắc bảo vệ tín dụng thì ngân hàng không thể cho vay. Chính vì không đủ điều kiện theo quy định, không vay được vốn nên nhiều doanh nghiệp quay ra phàn nàn ngân hàng gây khó khăn. Nhưng đến thời điểm này phải khẳng định, ngân hàng cần doanh nghiệp hơn là doanh nghiệp cần ngân hàng, chỉ có điều ngân hàng không tìm ra được doanh nghiệp tốt để cho vay.

Từ đầu năm 2014 đến nay tăng trưởng tín dụng ở khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng ACB chỉ được 2%, so với tăng trưởng tín dụng chung của ngân hàng này là 7%. Điều này cho thấy, khả năng tăng trưởng tín dụng ở khu vực doanh nghiệp rất khó khăn mặc dù ngân hàng đã đưa ra nhiều gói tín dụng kích thích doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi nhưng vẫn không thu hút được khách hàng.

Nhiều ngân hàng thừa tiền nhưng không thể cho vay

Tại Viet Capital Bank, số vốn hạn mức cho doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi là hơn 11.000 tỉ đồng nhưng đến nay số tiền doanh nghiệp không dùng là 2.450 tỉ đồng, chiếm khoảng 20%. Tổng giám đốc Viet Capital Bank Đỗ Duy Hưng lý giải: “Ngân hàng rất muốn cho doanh nghiệp vay nhưng các doanh nghiệp tốt ngân hàng lùng sục hết rồi, họ không còn nhu cầu vay thêm vốn, còn nhiều doanh nghiệp khác thì chưa đáp ứng được theo quy định”.

Tình hình cũng tương tự với EximBank. Ngân hàng này cam kết cho các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường ở TP HCM là 300 tỉ đồng, nhưng đến nay mới giải ngân được 114 tỉ đồng; chương trình kết nối ngân hàng và doanh nghiệp với cam kết cho vay là 3.781 tỉ đồng nhưng 8 tháng đầu năm dư nợ chỉ đạt 1.841 tỉ đồng.

“Thậm chí có những hạn mức lên đến hơn 20.000 tỉ đồng nhưng các doanh nghiệp không sử dụng hết, mặc dù EximBank cũng rất đeo bám, tiếp cận khách hàng liên tục để biết khi nào doanh nghiệp cần sẽ giải ngân ngay, nhưng đến nay vẫn còn một lượng rất lớn hạn mức tín dụng ngân hàng cấp nhưng doanh nghiệp chưa dùng đến”, ông Nguyễn Quang Triết, Phó tổng giám đốc EximBank nói.

TS Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế nhận định: Để gỡ vướng mắc này, không chỉ ngành ngân hàng nỗ lực là đủ mà còn phải ở cả phía doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn phải làm sao có kế hoạch phục hồi tốt, đáp ứng yêu cầu vay vốn thì ngân hàng mới có thể cho vay.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM, các doanh nghiệp gặp khó khăn thì tài sản thế chấp để vay vốn lại rất hạn chế, do đó các doanh nghiệp khá thờ ơ với việc vay vốn bởi họ biết không đủ điều kiện vay.

Ngoài ra, theo các doanh nghiệp ngân hàng nên tăng cường cho doanh nghiệp vay trung, dài hạn chứ không chỉ những khoản ngắn hạn vì chỉ với những khoản vay trung, dài hạn doanh nghiệp mới có đủ thời gian để tái cơ cấu, tổ chức lại hoạt động sản xuất.

Tuy nhiên, các ngân hàng lại bị chốt chặn là chỉ được sử dụng 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn nhằm đảm bảo an toàn. Do đó, các ngân hàng chỉ có thể cho vay trung, dài hạn tối đa khoảng 45% tổng vốn huy động.

Dè dặt vì sợ nợ xấu

Ông Nguyễn Tiến Vĩnh, Phó giám đốc VietinBank Chi nhánh TP HCM phân trần: Mặc dù trong các hợp đồng thế chấp, các tổ chức tín dụng luôn có điều khoản quy định rõ ràng, trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng được quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tuy nhiên, hầu như không bao giờ ngân hàng làm được chuyện này nếu khách hàng không đồng ý mà phải thông qua con đường khởi kiện ra tòa, thi hành án. Thủ tục khởi kiện ra tòa, trải qua một quá trình tố tụng, xét xử rất nhiêu khê, sau đó qua giai đoạn thi hành án lại càng khó khăn hơn gấp nhiều lần. Có những vụ cách đây hơn chục năm nhưng ngân hàng vẫn không thu hồi được nợ mặc dù có điều kiện thi hành án (có tài sản).

Công tác xử lý nợ chậm là nguy cơ đe dọa khả năng tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng, bởi gây ra tâm lý ức chế trong việc cho vay khách hàng mới, khiến cán bộ ngân hàng dè dặt hơn, kém tự tin trong việc thẩm định cho vay đối với những doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.

“Tại ACB những cán bộ ngân hàng vướng nợ xấu trên 3% phải ngưng cho vay để tập trung xử lý nợ. Khi nào nợ xấu xuống dưới mức này thì mới được phục hồi lại chức danh và tiếp tục cho vay”, ông Đỗ Minh Toàn, Tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho hay.

“Doanh nghiệp lúc nào cũng muốn ngân hàng đưa tiền ra một cách đơn giản, nhưng nếu đơn giản thì nợ xấu tăng lên, thu hồi lại không được. Chuyện này gây ra tâm lý e ngại cho cán bộ tín dụng lẫn phê duyệt tín dụng ở các ngân hàng bởi nếu có rủi ro thì khó thu hồi nợ là một chuyện, đôi khi còn liên quan đến vấn đề hình sự rất nghiêm trọng”, bà Trương Thị Thúy Nga, Phó tổng giám đốc kiêm Giám đốc Chi nhánh VietcomBank TP HCM phân trần.

Theo TS Trần Du Lịch, cần có một nghị quyết Quốc hội để xử lý vấn đề này, nếu không sẽ khó tháo gỡ các vướng mắc cho các ngân hàng. Ngân hàng muốn bán một tài sản thể chấp phải trải qua quá trình cực kỳ phức tạp, đặc biệt khi con nợ không hợp tác. Tình trạng này dẫn đến ách tắc trong thanh khoản về tài sản đảm bảo và khi không bán được tài sản thì thị trường mua bán nợ không thể hình thành.

Khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng đến tín dụng là vấn đề xử lý nợ quá phức tạp. Những khó khăn này, không phải mới đây các ngân hàng mới đưa ra mà việc này đã nói đến rất nhiều từ những năm 2000 nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ gì nhiều. Thiết nghĩ cần quyết liệt trong tháo gỡ khó khăn này để các ngân hàng xử lý rốt ráo nợ xấu, từ đó mạnh dạn đưa vốn vào nền kinh tế.

Mai Phương

 

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Hà Nội - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Miền Tây - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Tây Nguyên - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
NL 99.99 14,280 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,280 ▲50K
Trang sức 99.9 14,590 ▲50K 15,190 ▲50K
Trang sức 99.99 14,600 ▲50K 15,200 ▲50K
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,514 ▲5K 15,342 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,514 ▲5K 15,343 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 149 ▲1K 1,515 ▲10K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 149 ▲1K 1,516 ▲10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,475 ▲10K 1,505 ▲10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,451 ▲99K 14,901 ▲99K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,536 ▲750K 113,036 ▲750K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95 ▼9337K 1,025 ▼9157K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,464 ▲610K 91,964 ▲610K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 804 ▼79013K 879 ▼86438K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,415 ▲417K 62,915 ▲417K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Cập nhật: 26/11/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16619 16888 17462
CAD 18209 18485 19100
CHF 32078 32460 33105
CNY 0 3470 3830
EUR 29933 30206 31234
GBP 33998 34388 35322
HKD 0 3260 3461
JPY 162 166 172
KRW 0 17 19
NZD 0 14697 15283
SGD 19742 20024 20538
THB 733 797 851
USD (1,2) 26106 0 0
USD (5,10,20) 26148 0 0
USD (50,100) 26176 26196 26403
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,110 30,134 31,280
JPY 165.65 165.95 172.91
GBP 34,346 34,439 35,248
AUD 16,856 16,917 17,359
CAD 18,421 18,480 19,002
CHF 32,355 32,456 33,119
SGD 19,889 19,951 20,574
CNY - 3,675 3,772
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 16.74 17.46 18.75
THB 781.55 791.2 841.88
NZD 14,664 14,800 15,152
SEK - 2,729 2,808
DKK - 4,028 4,144
NOK - 2,544 2,618
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,991.18 - 6,719.99
TWD 761.07 - 916.32
SAR - 6,931.85 7,256.12
KWD - 83,751 88,676
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,924 30,044 31,176
GBP 34,096 34,233 35,203
HKD 3,323 3,336 3,444
CHF 32,078 32,207 33,098
JPY 164.89 165.55 172.49
AUD 16,749 16,816 17,353
SGD 19,908 19,988 20,529
THB 795 798 834
CAD 18,374 18,448 18,982
NZD 14,665 15,174
KRW 17.34 18.94
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26170 26170 26403
AUD 16781 16881 17809
CAD 18381 18481 19496
CHF 32310 32340 33931
CNY 0 3687.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30096 30126 31851
GBP 34278 34328 36091
HKD 0 3390 0
JPY 165.68 166.18 176.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14800 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19882 20012 20740
THB 0 762.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 26/11/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,403
USD20 26,190 26,240 26,403
USD1 23,889 26,240 26,403
AUD 16,789 16,889 18,010
EUR 30,196 30,196 31,327
CAD 18,308 18,408 19,724
SGD 19,949 20,099 20,715
JPY 165.59 167.09 171.76
GBP 34,316 34,466 35,253
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,571 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 12:00