Khi ngân hàng cần doanh nghiệp

08:00 | 16/11/2014

979 lượt xem
|
Khi các doanh nghiệp tiếp tục bài ca khó tiếp cận được vốn vay khiến người ta nghĩ ngay lỗi do các ngân hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, ít ai biết nhiều ngân hàng thương mại cũng rất “khổ” khi thừa vốn mà không thể cho vay.

Năng lượng Mới số 373

“Săn” doanh nghiệp tốt

Ông Văn Đức Mười, Tổng giám đốc VISSAN nhận định: Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ ở nước ta tiếp cận vay vốn rất thiếu chuyên nghiệp. Họ cứ muốn ngân hàng cho vay nhưng không có tài sản đảm bảo và lại không muốn ngân hàng giám sát việc sử dụng đồng vốn đó như thế nào. Do đó, xét về nguyên tắc bảo vệ tín dụng thì ngân hàng không thể cho vay. Chính vì không đủ điều kiện theo quy định, không vay được vốn nên nhiều doanh nghiệp quay ra phàn nàn ngân hàng gây khó khăn. Nhưng đến thời điểm này phải khẳng định, ngân hàng cần doanh nghiệp hơn là doanh nghiệp cần ngân hàng, chỉ có điều ngân hàng không tìm ra được doanh nghiệp tốt để cho vay.

Từ đầu năm 2014 đến nay tăng trưởng tín dụng ở khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng ACB chỉ được 2%, so với tăng trưởng tín dụng chung của ngân hàng này là 7%. Điều này cho thấy, khả năng tăng trưởng tín dụng ở khu vực doanh nghiệp rất khó khăn mặc dù ngân hàng đã đưa ra nhiều gói tín dụng kích thích doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi nhưng vẫn không thu hút được khách hàng.

Nhiều ngân hàng thừa tiền nhưng không thể cho vay

Tại Viet Capital Bank, số vốn hạn mức cho doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi là hơn 11.000 tỉ đồng nhưng đến nay số tiền doanh nghiệp không dùng là 2.450 tỉ đồng, chiếm khoảng 20%. Tổng giám đốc Viet Capital Bank Đỗ Duy Hưng lý giải: “Ngân hàng rất muốn cho doanh nghiệp vay nhưng các doanh nghiệp tốt ngân hàng lùng sục hết rồi, họ không còn nhu cầu vay thêm vốn, còn nhiều doanh nghiệp khác thì chưa đáp ứng được theo quy định”.

Tình hình cũng tương tự với EximBank. Ngân hàng này cam kết cho các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường ở TP HCM là 300 tỉ đồng, nhưng đến nay mới giải ngân được 114 tỉ đồng; chương trình kết nối ngân hàng và doanh nghiệp với cam kết cho vay là 3.781 tỉ đồng nhưng 8 tháng đầu năm dư nợ chỉ đạt 1.841 tỉ đồng.

“Thậm chí có những hạn mức lên đến hơn 20.000 tỉ đồng nhưng các doanh nghiệp không sử dụng hết, mặc dù EximBank cũng rất đeo bám, tiếp cận khách hàng liên tục để biết khi nào doanh nghiệp cần sẽ giải ngân ngay, nhưng đến nay vẫn còn một lượng rất lớn hạn mức tín dụng ngân hàng cấp nhưng doanh nghiệp chưa dùng đến”, ông Nguyễn Quang Triết, Phó tổng giám đốc EximBank nói.

TS Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế nhận định: Để gỡ vướng mắc này, không chỉ ngành ngân hàng nỗ lực là đủ mà còn phải ở cả phía doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn phải làm sao có kế hoạch phục hồi tốt, đáp ứng yêu cầu vay vốn thì ngân hàng mới có thể cho vay.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM, các doanh nghiệp gặp khó khăn thì tài sản thế chấp để vay vốn lại rất hạn chế, do đó các doanh nghiệp khá thờ ơ với việc vay vốn bởi họ biết không đủ điều kiện vay.

Ngoài ra, theo các doanh nghiệp ngân hàng nên tăng cường cho doanh nghiệp vay trung, dài hạn chứ không chỉ những khoản ngắn hạn vì chỉ với những khoản vay trung, dài hạn doanh nghiệp mới có đủ thời gian để tái cơ cấu, tổ chức lại hoạt động sản xuất.

Tuy nhiên, các ngân hàng lại bị chốt chặn là chỉ được sử dụng 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn nhằm đảm bảo an toàn. Do đó, các ngân hàng chỉ có thể cho vay trung, dài hạn tối đa khoảng 45% tổng vốn huy động.

Dè dặt vì sợ nợ xấu

Ông Nguyễn Tiến Vĩnh, Phó giám đốc VietinBank Chi nhánh TP HCM phân trần: Mặc dù trong các hợp đồng thế chấp, các tổ chức tín dụng luôn có điều khoản quy định rõ ràng, trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng được quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tuy nhiên, hầu như không bao giờ ngân hàng làm được chuyện này nếu khách hàng không đồng ý mà phải thông qua con đường khởi kiện ra tòa, thi hành án. Thủ tục khởi kiện ra tòa, trải qua một quá trình tố tụng, xét xử rất nhiêu khê, sau đó qua giai đoạn thi hành án lại càng khó khăn hơn gấp nhiều lần. Có những vụ cách đây hơn chục năm nhưng ngân hàng vẫn không thu hồi được nợ mặc dù có điều kiện thi hành án (có tài sản).

Công tác xử lý nợ chậm là nguy cơ đe dọa khả năng tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng, bởi gây ra tâm lý ức chế trong việc cho vay khách hàng mới, khiến cán bộ ngân hàng dè dặt hơn, kém tự tin trong việc thẩm định cho vay đối với những doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.

“Tại ACB những cán bộ ngân hàng vướng nợ xấu trên 3% phải ngưng cho vay để tập trung xử lý nợ. Khi nào nợ xấu xuống dưới mức này thì mới được phục hồi lại chức danh và tiếp tục cho vay”, ông Đỗ Minh Toàn, Tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho hay.

“Doanh nghiệp lúc nào cũng muốn ngân hàng đưa tiền ra một cách đơn giản, nhưng nếu đơn giản thì nợ xấu tăng lên, thu hồi lại không được. Chuyện này gây ra tâm lý e ngại cho cán bộ tín dụng lẫn phê duyệt tín dụng ở các ngân hàng bởi nếu có rủi ro thì khó thu hồi nợ là một chuyện, đôi khi còn liên quan đến vấn đề hình sự rất nghiêm trọng”, bà Trương Thị Thúy Nga, Phó tổng giám đốc kiêm Giám đốc Chi nhánh VietcomBank TP HCM phân trần.

Theo TS Trần Du Lịch, cần có một nghị quyết Quốc hội để xử lý vấn đề này, nếu không sẽ khó tháo gỡ các vướng mắc cho các ngân hàng. Ngân hàng muốn bán một tài sản thể chấp phải trải qua quá trình cực kỳ phức tạp, đặc biệt khi con nợ không hợp tác. Tình trạng này dẫn đến ách tắc trong thanh khoản về tài sản đảm bảo và khi không bán được tài sản thì thị trường mua bán nợ không thể hình thành.

Khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng đến tín dụng là vấn đề xử lý nợ quá phức tạp. Những khó khăn này, không phải mới đây các ngân hàng mới đưa ra mà việc này đã nói đến rất nhiều từ những năm 2000 nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ gì nhiều. Thiết nghĩ cần quyết liệt trong tháo gỡ khó khăn này để các ngân hàng xử lý rốt ráo nợ xấu, từ đó mạnh dạn đưa vốn vào nền kinh tế.

Mai Phương

 

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Hà Nội - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Đà Nẵng - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Miền Tây - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Tây Nguyên - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,000 ▲3000K 150,900 ▲1900K
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
Trang sức 99.9 14,930 ▲230K 15,080 ▲180K
NL 99.99 14,940 ▲230K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,940 ▲230K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
Miếng SJC Thái Bình 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
Miếng SJC Nghệ An 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
Miếng SJC Hà Nội 14,940 ▲230K 15,090 ▲180K
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,494 ▲23K 15,092 ▲180K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,494 ▲23K 15,093 ▲180K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,482 ▲23K 1,504 ▲23K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,482 ▲23K 1,505 ▲23K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,459 ▲23K 1,489 ▲23K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 142,926 ▲2277K 147,426 ▲2277K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,336 ▲1725K 111,836 ▲1725K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 93,912 ▲1564K 101,412 ▲1564K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,488 ▲1403K 90,988 ▲1403K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,467 ▲1341K 86,967 ▲1341K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,748 ▲960K 62,248 ▲960K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,494 ▲23K 1,509 ▲18K
Cập nhật: 17/10/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16509 16778 17354
CAD 18214 18490 19105
CHF 32626 33010 33660
CNY 0 3470 3830
EUR 30188 30461 31487
GBP 34591 34983 35915
HKD 0 3260 3461
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14760 15350
SGD 19826 20107 20622
THB 723 786 839
USD (1,2) 26071 0 0
USD (5,10,20) 26112 0 0
USD (50,100) 26140 26190 26356
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,155 26,155 26,356
USD(1-2-5) 25,109 - -
USD(10-20) 25,109 - -
EUR 30,435 30,459 31,595
JPY 172.22 172.53 179.63
GBP 35,027 35,122 35,921
AUD 16,843 16,904 17,338
CAD 18,467 18,526 19,039
CHF 32,998 33,101 33,766
SGD 20,005 20,067 20,676
CNY - 3,651 3,745
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.2 17.94 19.25
THB 773.84 783.4 833.76
NZD 14,815 14,953 15,292
SEK - 2,756 2,839
DKK - 4,071 4,185
NOK - 2,581 2,655
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,849.44 - 6,556.21
TWD 778.55 - 936.72
SAR - 6,925.62 7,244.45
KWD - 84,082 88,935
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,246 30,367 31,451
GBP 34,804 34,944 35,882
HKD 3,325 3,338 3,440
CHF 32,708 32,839 33,732
JPY 171.48 172.17 179.09
AUD 16,763 16,830 17,346
SGD 20,034 20,114 20,626
THB 789 792 826
CAD 18,441 18,515 18,996
NZD 14,859 15,336
KRW 17.84 19.50
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26356
AUD 16729 16829 17437
CAD 18406 18506 19112
CHF 32865 32895 33811
CNY 0 3661.3 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30376 30406 31434
GBP 34911 34961 36064
HKD 0 3390 0
JPY 171.76 172.26 179.27
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14891 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19988 20118 20851
THB 0 754.6 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14710000 14710000 14910000
SBJ 12000000 12000000 14910000
Cập nhật: 17/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,150 26,200 26,356
USD20 26,150 26,200 26,356
USD1 23,854 26,200 26,356
AUD 16,769 16,869 17,987
EUR 30,508 30,508 31,839
CAD 18,344 18,444 19,763
SGD 20,056 20,206 20,681
JPY 172.14 173.64 178.28
GBP 34,982 35,132 36,320
XAU 14,708,000 0 14,912,000
CNY 0 3,544 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 17/10/2025 10:00